Hướng Dẫn Học Tập Lịch Sử - Giáo trình PDF

Summary

This document is a study guide for Vietnamese history. It covers various chapters and includes questions and answers for each. The document may be suitable for students studying Vietnamese history at the undergraduate level. The study guide is likely a learning resource prepared for educational purposes.

Full Transcript

MỤC LỤC Trang Phần I. HỆ THỐNG CÂU HỎI 7 Phần II. GỢI Ý TRẢ LỜI 13 Chương 1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) 14 Chương 2. Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945-1975) 50 Chương 3. Đảng lãnh đạo cả...

MỤC LỤC Trang Phần I. HỆ THỐNG CÂU HỎI 7 Phần II. GỢI Ý TRẢ LỜI 13 Chương 1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) 14 Chương 2. Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945-1975) 50 Chương 3. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới (1975-2018) 81 1 PHẦN I HỆ THỐNG CÂU HỎI 2 Câu 1: Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của nó đối với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Câu 2: Trình bày khái quát các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Nguyên nhân thất bại và yêu cầu đặt ra đối với cách mạng Việt Nam là gì? Câu 3: Làm rõ quá trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Vì sao đây là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử dân tộc? Câu 4: Làm rõ quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Câu 5: Phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng thông qua tháng 2-1930. Câu 6: Nêu tính tất yếu và ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Câu 7: Làm rõ đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương được thể hiện trong Luận cương chính trị tháng 10-1930 của Đảng. Câu 8: Làm rõ điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng trong những năm 1936 - 1939. Câu 9: Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941). 3 Câu 10: Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” được Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua ngày 12-3-1945. Câu 11: Nêu tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Câu 12: Làm rõ tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và nội dung, ý nghĩa lịch sử của Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua ngày 25-11-1945. Câu 13: Trình bày chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về xây dựng, bảo vệ chế độ mới và chính quyền cách mạng những năm 1945-1946. Câu 14: Chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng những năm 1946-1950. Câu 15: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại Đại hội II (2-1951). Câu 16: Nêu ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm về lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954). Câu 17: Đặc điểm cơ bản của nước ta sau tháng 7-1954. Trình bày nội dung và ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Lao động Việt Nam (1/1959) đề ra. 4 Câu 18: Trình bày quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân miền Nam đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai (1961-1965). Câu 19: Làm rõ hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản và ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1965) đề ra. Câu 20: Trình bày quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân miền Nam đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ và tay sai (1965-1968). Câu 21: Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ những năm 1965-1968. Câu 22: Trình bày ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Câu 23: Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của đường lối cách mạng Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đề ra. Câu 24: Làm rõ các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế của Đảng từ năm 1979 đến năm 1986. Câu 25: Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986). Câu 26: Trình bày nội dung và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ 5 nghĩa xã hội được Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) thông qua (Gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Câu 27: Trình bày nội dung và ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) của Đảng. Câu 28: Nêu đặc trưng và phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh năm 2011. Câu 29: Nêu thành tựu và kinh nghiệm của công cuộc đổi mới. Câu 30: Phân tích và chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 6 PHẦN II GỢI Ý TRẢ LỜI 7 Chương 1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945) Câu 1: Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của nó đối với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. * Năm 1958, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta, chúng thi hành chính sách phản động toàn diện. - Về chính trị: Bên cạnh việc tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc; chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với cách thức cai trị khác nhau, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng Tối cao Đông Dương, do Toàn quyền làm Chủ tịch, các ủy viên Hội đồng hầu hết là người Pháp. Đứng đầu Liên bang Đông Dương là viên Toàn quyền, thay mặt Chính phủ Pháp để cai trị Đông Dương về mọi mặt. Đứng đầu các kỳ là Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ. Từ cấp 8 tỉnh, xứ và liên bang Đông Dương, quyền lực đều tập trung vào tay những quan chức người Pháp. - Về kinh tế: Chính quyền thực dân tiến hành chương trình khai thác thuộc địa trên quy mô lớn nhằm khai thác tài nguyên, bóc lột nhân công, cướp ruộng đất của nông dân, biến Việt Nam và Đông Dương thành thị trường độc quyền của Pháp. Tuy có những biến đổi về cơ cấu kinh tế, ra đời một số ngành công nghiệp, khai thác mỏ, giao thông vận tải, thương nghiệp, kinh tế đồn điền… mang tính chất tư bản - thực dân nhưng vẫn không đủ làm biến đổi nền sản xuất phong kiến nghèo nàn lạc hậu. - Về văn hóa, xã hội: Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hóa, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”… Chế độ áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa của thực dân Pháp đã làm biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam. Việt Nam từ xã hội phong kiến độc lập đã thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Dân tộc Việt Nam bị mất độc lập tự do, kinh tế không phát triển, đời sống vô cùng cực khổ. 9 * Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, tình hình giai cấp - xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế khác nhau và do đó, cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc. - Giai cấp địa chủ: Một bộ phận câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân; một bộ phận khác nêu cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo phong trào Cần Vương; một số trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản động; một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản. - Giai cấp nông dân: Chiếm số lượng đông nhất lúc bấy giờ (khoảng hơn 90% dân số), là giai cấp bị phong kiến, thực dân bóc lột nặng nề nhất. Do vậy, ngoài mâu thuẫn giai cấp vốn có với giai cấp địa chủ, từ khi thực dân Pháp xâm lược, giai cấp nông dân còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân Pháp. Đây là lực lượng hùng hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự do của dân tộc và khao khát giành lại ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến. - Giai cấp công nhân: Công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa, với việc thực dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền. Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, 10 giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng vì ra đời trog hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo. - Giai cấp tư sản: Xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân, nhưng sớm bị phân hóa. Một bộ phận gắn liền với lợi ích của tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước, nhưng không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng. - Tầng lớp tiểu tư sản: Bao gồm tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên… bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu kiên định, do đó tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. - Các sĩ phu phong kiến cũng có sự phân hóa. Một bộ phận hướng sang tư tưởng dân chủ tư sản hoặc tư tưởng vô sản. Một số người khởi xướng các phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn. * Dưới xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản phải giải quyết - Một là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai (còn gọi là mâu thuẫn dân tộc). 11 - Hai là, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến (còn gọi là mâu thuẫn giai cấp). Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và tay sai trở thành mâu thuẫn chủ yếu và ngày càng gay gắt. Giải quyết mâu thuẫn đó để mở đường cho đất nước phát triển là yêu cầu cơ bản và bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Câu 2: Khái quát các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng. Nguyên nhân thất bại và yêu cầu đặt ra với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ? * Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với tinh thần quật cường bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục, rộng khắp, theo nhiều khuynh hướng khác nhau. - Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến + Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng (1885-1896). Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)… diễn ra sôi nổi và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Nhưng ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo thất bại (1896) cũng là mốc 12 chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, vua Thành Thái và vua Duy Tân tiếp tục đấu tranh chống Pháp, trong đó có khởi nghĩa của Vua Duy Tân (5-1916). + Phong trào nông dân Yên Thế: Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung du phía Bắc, phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp. Nhưng phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp. - Phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản + Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo: Với chủ trương tập hợp lực lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật Bản, phong trào tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập (gọi là phong trào “Đông Du”). Đến năm 1908, Chính phủ Nhật câu kết với thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh Việt Nam và những người đứng đầu. Sau khi phong trào Đông Du thất bại, với ảnh hưởng của cách mạng Tân Hợi (1911) Trung Quốc, năm 1912, Phan Bội Châu thành lập tổ chức Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước 13 Cộng hòa Dân quốc Việt Nam. Nhưng chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội lại thiếu rõ ràng. Cuối năm 1913, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc đến năm 1917 và sau này bị quản chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ảnh hưởng xu hướng bạo động của tổ chức Việt Nam Quang phục hội đối với phong trào yêu nước Việt Nam đến đây chấm dứt. + Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những người cùng chí hướng muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động như Phan Bội Châu, mà chủ trương cải cách đất nước. Phan Châu Trinh cho rằng “bất bạo động, bạo động tắc tử; phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện chủ trương ấy, Phan Châu Trinh đề nghị Nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Đó là sự hạn chế của xu hướng cải cách để cứu nước, vì Phan Châu Trinh đã đặt vận mệnh giải phóng dân tộc Việt Nam vào tay người Pháp. Do vậy, khi phong trào Duy Tân lan rộng khắp Trung Kỳ và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp đã đàn áp dã man, giết hại nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biểu tình. Nhiều sĩ phu bị bắt, bị đày đi Côn Đảo, trong đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn… Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị thực dân Pháp dập tắt, cùng với sự kiện tháng 12-1907 thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục phản ánh sự kết thúc xu hướng cải cách trong phong trào yêu nước của Việt Nam. 14 + Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng: Việt Nam Quốc dân đảng là tổ chức yêu nước do Nguyễn Thái Học và một số đồng chí của ông thành lập vào tháng 12-1927, tại Bắc Kỳ. Mục đích của Việt Nam Quốc dân đảng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ trang nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân và lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên… Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở một số tỉnh, chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái (2-1930), tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng bị thất bại. * Các phong trào yêu nước đó là cuộc biểu dương tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam, những hầu hết đều thất bại, vì những nguyên nhân chủ yếu sau: - Trên thực tế, các phong trào cứu nước từ các lập trường phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đã thất bại. Thất bại của phong trào Cần Vương là do không có đường lối đúng, vì giai cấp địa chủ phong kiến đã không còn khả năng dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi. - Cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ không phải là con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn. - Các phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản do đường lối chính trị không rõ ràng, nhất là không biết dựa vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào uy tín cá nhân nên không tạo ra được sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự thống nhất cao trong những người khởi xướng phong trào. 15 Vì vậy, khi những người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã. Thất bại của phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản đã nói lên một sự thật: Con đường dân chủ tư sản cuối cùng đều rơi vào tình trạng bế tắc, không thể là con đường cứu nước. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. * Thực tế đó đòi hỏi phải có một đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách mạng có khả năng đưa phong trào yêu nước đến thắng lợi. Câu 3: Làm rõ quá trình tìm đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Vì sao đây là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử dân tộc? * Sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu nước và nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên hạn chế của các bậc cứu nước đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải nghiệm thực tế nhiều nước, Người đã nhận thức được một cách rạch ròi: “dù màu da khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức của Nguyễn Tất Thành đây là 16 “cuộc cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng tháng Mười Nga, về V.I.Lênin. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp tại Versailles (Pháp), Tổng thống Mỹ Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam), ngày 18-6-1919, nhóm người Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước ở Pháp gồm: Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng, nhưng sự kiện này đã tạo tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân. Tháng 7-1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin” đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc 17 tế Cộng sản về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) tại thành phố Tua (Pháp). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Sau quá trình khảo nghiệm thực tế và nghiên cứu lý luận cách mạng, Người đã rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. * Sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của lịch sử dân tộc vì: Tất cả những con đường cứu nước do lãnh tụ của các phong trào yêu nước tìm kiếm, thử nghiệm đều không thành công. Con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến đã thất bại. Con đường dân tộc tư sản có thể thắng lợi ở một số nước, nhưng ở Việt Nam, giai cấp tư sản yếu ớt về kinh tế và 18 chính trị, lại sinh sau giai cấp vô sản đã lớn mạnh, nên không thể hướng đất nước theo con đường của họ và thất bại của khởi nghĩa Yên Bái đã chứng minh. Cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tất yếu, sau khi các con đường khác đã thất bại. Trong lịch sử, dân tộc ta đã chiến thắng nhiều kẻ địch mạnh hơn, nhưng nay lại thất bại trước thực dân Pháp, vì kẻ thù mới hơn ta một trình độ phát triển về vật chất và kỹ thuật. Chỉ riêng lực lượng dân tộc và kho vũ khí truyền thống không đủ sức chiến thắng. Đặt cuộc giải phóng dân tộc vào cùng quĩ đạo cách mạng vô sản, sẽ có sức mạnh tổng hợp của dân tộctruyền thống và giai cấp, quốc tế, thời đại… để chiến thắng thực dân Pháp. Con đường cứu nước mới là kết luận cuối cùng sau quá trình khảo cứu khoa học, công phu của nhà yêu nước chân chính và lãnh tụ thiên tài Nguyễn Ái Quốc. Thực tế lịch sử Việt Nam đã kiểm chứng, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh cứu nước đúng đắn đã chấm dứt cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, mở ra bước ngoặt thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự chuẩn bị công phu, đặc biệt của ý nghĩa đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Câu 4: Làm rõ quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. * Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị 19 - Về tư tưởng Giữa năm 1921, tại Pháp, cùng với một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế... Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, 20 ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. - Về chính trị Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân. Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông 21 đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”. Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn i uốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của công nhân. * Chuẩn bị về tổ chức Sau khi lựa chọn con đường cứu - con đường cách mạng vô sản - cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng 22 sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn. Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: Trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sử đặt tại Quảng Châu. Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, truyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi thành lập, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số các học viên được đào 23 tạo tại Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản Phương Đông (Liên Xô) và Trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc). Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước châu Âu. Năm 1928, Người trở về châu Á và hoạt động ở Xiêm (Thái Lan). Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Đông xuất bản thành cuốn “Đường Kách mệnh”. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong. Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm. Những hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929), An Nam cộng sản Đảng (7-1929) và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929). 24 Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Câu 5: Phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng thông qua tháng 2-1930. * Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn i uốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, thì Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Về mục tiêu chiến lược: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù cách mạng vô sản. 25 - Về nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: + Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. + Về phương diện kinh tế kinh tế: Thủ tiêu các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho Chính phủ công binh quản lý; tịch thu ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công - nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ… + Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: Dân chúng được tự do tổ chức; nam, nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hóa… Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng gia cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng công nhân và nông dân. Các nhiệm vụ chủ yếu trước mắt nêu trên phản ánh hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến phản động; trong đó, chống đế quốc giành độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu. 26 - Về lực lượng cách mạng: Phải đoàn kết công nhân, nông dân - đây là lực lượng cơ bản , trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời, đoàn kết tất cả các giai cấp, lực lượng tiến bộ, yêu nước tập trung lực lượng chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày”… hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước, cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam. - Về phương pháp cách mạng: Cương lĩnh xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được thỏa hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”. Có sách lược đấu tranh thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng kiên quyết: bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến…) thì phải đánh đổ”. - Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế 27 giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân. - Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Cương lĩnh xác định “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. * Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó, đặc biệt là đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ của các giai cấp, tầng lớp đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường 28 lối chiến lược và sách lược đã đề ra. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới. Câu 6: Nêu tính tất yếu và ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. * Tính tất yếu của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam, là sản phẩm của sự kết hợp giữa lý luận cách mạng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sục sôi ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Lý luận cách mạng (chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh) đóng vai trò là nên tảng tư tưởng và vũ khí tinh thần của Đảng. Từ khi có lý luận cách mạng, các phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển một cách có tổ chức và tự giác. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội, là sức mạnh vật chất của Đảng. Chỉ qua hoạt động của giai cấp công nhân, lý luận tiên tiến mới biến thành hiện thực sinh động. Được soi sáng bằng lý luận Mác - Lênin, phong trào công nhân mới có khả năng đấu tranh chính trị và giành được thắng lợi. Hoạt động truyền bá lý luận Mác - Lênin vào trong nước, sự phát triển của phong trào công nhân đã vượt quá khả năng lãnh đạo của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - một 29 hình thức tổ chức quá độ. Từ sự phân hóa của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, đã cho ra đời hai tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản đảng (6-1929) và An Nam cộng sản đảng (7-1929). Chính khát vọng giải phóng dân tộc và sự thất bại của các phong trào yêu nước trước năm 1930 đã đặt ra yêu cầu phải có lãnh tụ chính trị mới. Từ lực lượng yêu nước, các thành phần tiên tiến, xuất sắc tích cực tham gia vào tổ chức Đảng Cộng sản. Xét về phía công nhân, sự tham gia của phong trào công nhân cũng chính là sự tham gia của phong trào yêu nước vào việc thành lập Đảng, vì bản thân phong trào công nhân cũng là phong trào yêu nước. Điển hình cho sự chuyển hóa từ phong trào yêu nước thành phong trào cộng sản là tổ chức Tân Việt dẫn đến sự ra đời của Đông Dương cộng sản liên đoàn (cuối năm 1929 - đầu năm 1930). Bản thân Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ban đầu cũng là một tổ chức yêu nước. Sự tác động giữa các yếu tố đã thúc đẩy lẫn nhau, đưa phong trào cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển, dẫn đến điều kiện cho sự ra đời của Đảng đã chín muồi. * Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong 30 trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản. Con đường duy nhất đúng đắn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Câu 7: Làm rõ đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương được thể hiện trong Luận cương chính trị tháng 10-1930 của Đảng. Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (tức Hồng Kông, Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt 31 Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng và thông qua bản “Luận cương chính trị” do đồng chí Trần Phú khởi thảo. * Nội dung Luận cương chính trị - Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Đông Dương: Luận cương xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. - Phương hướng chiến lược của cách mạng: Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó, sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. - Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến phản động, làm cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm đó quan hệ khăng khít với nhau, trong đó vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. - Về lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản và giai cấp nông dân là hai động chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. - Về phương pháp cách mạng: Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo 32 động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính quyền địch và giành chính quyền cho công nông. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải theo khuôn phép nhà binh”. - Về đoàn kết quốc tế: Luận cương nhấn mạnh cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. - Về lãnh đạo cách mạng: Luận cương khẳng định điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và trưởng thành từ trong thực tiễn đấu tranh. * Nhận xét về Luận cương Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng. Về cơ bản thống nhất với nội dung của Chính cương, Sách lược vắn tắt của Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930. Tuy nhiên, Luận cương đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về 33 thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó. Những hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực lượng cách mạng đã từng bước được khắc phục trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Đông Dương. Câu 8: Làm rõ điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng trong những năm 1936 - 1939. * Điều kiện lịch sử Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã đẩy những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản lên cao và ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa phát xít ra đời và thống trị ở Đức, Ý, Nhật. Đó là nền chuyên chính tư sản độc tài, tàn bạo và hiếu chiến nhất. Nó xóa bỏ quyền tự do, dân chủ, tiến hành khủng bố, khơi ngòi chiến tranh thế giới hòng chia lại thị trường. Chủ nghĩa phát xít trở thành nguy cơ lớn nhất đe dọa nhân loại. Trước họa phát xít và nguy cơ chiến tranh chiến tranh phát xít, yêu cầu bức thiết của nhân loại chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Tháng 7-1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva, Đại hội vạch rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. 34 Nhiệm vụ trước mắt của công nhân quốc tế là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc, giành dân chủ và hòa bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ trên, giai cấp công nhân quốc tế phải thống nhất hành động; phải thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít. Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt. Sự chuyển hướng chiến lược của Quốc tế Cộng sản có vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với phong trào cộng sản và phong trào giải phóng ở các xứ thuộc địa. Ở Pháp, tháng 5-1935, Mặt trận nhân dân Pháp được thành lập. Tháng 6-1936, Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp ra đời, chủ trương thực hiện một số cải cách dân chủ ở chính quốc và các thuộc địa. Ở Đông Dương, bọn thực dân Pháp phân hóa. Một bộ phận nhỏ chịu thi hành chính sách của chính quốc, bộ phận phản động thuộc địa tăng cường áp bức, bóc lột, ngoan cố bám giữ lập trường thực dân… Đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp, kể cả giai cấp tư sản, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng thiết tha của nhân dân là đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng đã được phục hồi để bước vào cuộc đấu tranh mới. * Chủ trương của Đảng Những biến đổi của tình hình quốc tế và trong nước đặt Đảng Cộng sản Đông Dương trước yêu cầu mới. Tháng 735 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải, Trung Quốc, do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì. Căn cứ vào tình hình thế giới, trong nước và nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã đưa ra những chủ trương mới về về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh phù hợp với tình hình cách mạng lúc bầy giờ. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Lập Mặt trận nhân dân phản đế tập hợp rộng rãi các giai cấp, đảng phái, đoàn thể chính trị, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc Đông Dương cùng nhau đấu tranh đòi những quyền tự do, dân chủ thiết thực hàng ngày. Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật, bất hợp pháp. Hội nghị Trung ương tháng 3-1937 và tháng 9-1937 đã bàn sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Hội nghị Trung ương tháng 3-1938, quyết định đổi tên Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp rộng rãi hơn nữa các lực lượng dân chủ, tiến bộ cùng nhau đấu tranh cho mục tiêu chung lúc này là tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. 36 Đảng cũng đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa. Trong Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Gửi các tổ chức của Đảng (26-7-1936), chỉ rõ “ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp, có thể sẽ nảy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào dân tộc”. Trong văn kiện xung quanh vấn đề chiến lược mới (10-1939), Đảng nêu quan điểm, cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải kết hợp với cách mạng ruộng đất. Nếu tiến hành cách mạng ruộng đất mà ảnh hưởng đến việc tập hợp lực lượng để giải phóng dân tộc, thì phải tạm gác vấn đề ruộng đất và tập trung cho việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc đến thắng lợi. Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930). Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Câu 9: Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5 - 1941). * Nội dung Nghị quyết Trung ương lần thứ tám Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước và làm việc ở Cao Bằng. 37 Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng. “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất”. Hôi nghị Trung ương tám nêu rõ những vấn đề quan trọng: Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Nhật - Pháp. Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược” và giải thích rằng cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức”. Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung. Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản 38 xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”. Các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”. Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân; “phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh bại quân thù”. * Ý nghĩa lịch sử Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn i uốc. Đó là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do. Câu 10: Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” được Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua ngày 12-3-1945. Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Mâu thuẫn Nhât - Pháp ngày càng mâu thuẫn 39 gay gắt, với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. uân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, với những nội dung cơ bản là: - Nhận định tình hình: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, những điều kiện khởi nghĩa chưa thật chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi (chính trị khủng hoảng do cuộc đảo chính gây ra, nạn đói ghê gớm và chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt). - Xác định kẻ thù: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. - Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính chị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc... - Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. 40 - Dự kiến những thời cơ thuận lợi để thực hiện Tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần. * Ý nghĩa lịch sử Bản chỉ thị ngày 12-3-1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Câu 11: Nêu tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945. * Tính chất của Cách mạng tháng Tám Cách mạng tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, được thể hiện: - Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai. - Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Việt Minh với những tổ chức quần 41 chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. - Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hòa dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc. * Ý nghĩa lịch sử - Đối với Việt Nam: Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam. Cách mạng tháng Tám thành công mở ra kỷ nguyên mới trên đất nước ta, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và vận mệnh của mình, Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. - Đối với thế giới: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam mà còn là chiến công của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì thế có thể cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cách mạng tháng Tám thắng lợi là thắng lợi là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa nửa 42 phong kiến, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lênin. Nó chứng tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa khi giai cấp công nhân ở “chính quốc” lên nắm quyền. * Bài học kinh nghiệm Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược: Phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở liên minh công nông, cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam, xây dựng một Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức. 43 Chương 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN, HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975) Câu 12: Làm rõ tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và nội dung, ý nghĩa lịch sử của Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua ngày 25-11-1945. * Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Thuận lợi Cục diện khu vực và thế giới có những sự thay đổi lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Âu, được giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh dâng cao. Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước. Đặc biệt, việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. 44 Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. uân đội quốc gia và lực lượng Công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng, phát huy vai trò đối với cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới. - Khó khăn Trên thế giới, phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn không ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của nhà nước Việt Nam. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng ba nước Đông Dương phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng. Trong nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng 45 nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh- Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. uân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân Nhật giúp sức quân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng ngày 23-9-1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam. Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam, từ cuối tháng 8-1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật chưa được giải giáp. Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài. * Nội dung Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền. 46 - Kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. - Mục tiêu của cuộc cách mạng: Vẫn là “dân tộc giải phóng”. - Khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. - Nhiệm vụ: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. - Chỉ thị vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên: + Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử uốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân. + Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài. + Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với Tưởng và chủ trương “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. + Về tuyên truyền: Hết sức kêu gọi đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược; đặc biệt chống mọi âm mưu phá hoại chia rẽ của Trốtxkít, Đại Việt, Việt Nam uốc dân Đảng... * Ý nghĩa lịch sử Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc 47 bấy giờ. Đồng thời, có tác dụng định hướng tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp này. Câu 13: Trình bày chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về xây dựng, bảo vệ chế độ mới và chính quyền cách mạng những năm 1945-1946. Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo. Trước tình hình đó, ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt: * Củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng chế độ mới Xây dựng cơ sở pháp lý cho chính quyền mới: để khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương sớm tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành (11-1946). Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp có ý nghĩa chính trị to lớn, là sự kiện quan 48 trọng tập hợp đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng và Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội: Mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng Mặt trận Việt Minh, lập thêm một số tổ chức mới để tập hợp đoàn kết dân tộc (Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đảng xã hội Việt Nam và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam) Xây dựng chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong sạch, vững mạnh thực sự của dân, do dân, vì dân. * Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói Đảng và Chính phủ đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói; xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ; ra sắc lệnh giảm tô 25%; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian, đất hoang hóa chia cho nông dân nghèo. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành (11-1946). Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. * Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ”, mở lại các lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã bước đầu xóa bỏ nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946, cả nước đã có thêm 2.5 triệu người biết đọc, biết viết. Đời sống tinh thần của một bộ phân 49 nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới. *Về tài chính Chính phủ tiết kiệm chi tiêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân đóng góp tiền, ủng hộ Chính phủ tạo lập ngân sách. Chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước đã góp được hàng chục triệu đồng và hàng trăm kg vàng. Bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập. * Chống thù trong, giặc ngoài Thực hiện sách lược hòa hoãn. Hòa với Tưởng ở miền Bắc, kháng Pháp ở miền Nam. - Đối với Tưởng, ta tạm thời chọn biện pháp hòa hoãn để tránh đụng đầu cùng một lúc với nhiều kẻ thù, nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị; cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, nhận tiêu tiền “quan kim, quốc tệ”; đồng ý cho bọn tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc hội, 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ. Mặt khác, Chính phủ dựa vào quần chúng, kiên quyết trừng trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại của bọn tay sai của Tưởng. - Đối với thực dân Pháp, ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược Nam Bộ, nhân dân Nam Bộ đã cương quyết đứng lên đánh Pháp. Nhân dân miền Bắc, miền Trung hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chí Minh dồn sức người, sức của ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam. - Đầu năm 1946, Pháp và Tưởng cấu kết với nhau để Pháp tiến ra Bắc. Ta chủ trương tạm hòa với Pháp, chủ động 50 ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và bản Tạm ước (14-9-1946) buộc Pháp phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, đồng thời ta cũng phải nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, chính trị và cho Pháp đưa 15 nghìn quân ra miền Bắc để nhanh chóng đuổi 20 vạn quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi lãnh thổ nước ta. Tranh thủ thời gian hòa hoãn, ta chuẩn bị lực lượng nhằm đối phó lâu dài với âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Thực hiện sách lược hòa hoãn, chứng tỏ sự sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sự lãnh đạo cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, không cho chúng tập trung lực lượng chống phá ta; đưa nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thử thách to lớn lúc đó, giữ vững thành quả vĩ đại của Cách mạng tháng Tám. Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau này. Câu 14: Chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng những năm 1946-1950. * Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng và Chính phủ ta đã tỏ rõ thiện chí, thực hiện nhiều biện pháp nhằm đẩy 51 lùi chiến tranh để xây dựng đất nước, nên đã ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Tuy nhiên, với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách việc đã rồi, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm, mở đầu bằng cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 16, 17-12-1946, quân đội Pháp ở Hà Nội ngang nhiên tấn công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính của ta; gây ra vụ thảm sát ở phố Yên Ninh và Hàng Bún. Ngày 18-12, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đưa liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp; phải phá bỏ công sự; giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ an ninh, trật tự của thành phố... Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất: Cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám vừa giành được. Trước hành động ngày càng lấn tới của địch, ta không thể nhân nhượng với chúng được nữa, vì tiếp tục nhân nhượng là mất nước, quay lại cuộc đời nô lệ. Vì vậy, tối ngày 19-12-1946, Đảng và Chính phủ đã phát động toàn quốc kháng chiến. * Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng những năm 1946-1950 Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được hình thành từ đầu cuộc kháng chiến và được phát triển, bổ sung trong quá trình tiến hành kháng chiến. Nội dung cơ bản được 52 thể hiện qua các văn kiện quan trọng của Đảng: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-121946); Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Thường vụ Trung ương Đảng (22-12-1946); tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh (9-1947). Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng (1946-1950) đã xác định những nội dung cơ bản sau: - Mục tiêu của kháng chiến: Đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. - Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta có tính chất dân tộc giải phóng, dân chủ mới và chính nghĩa. - Phương châm kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Kháng chiến toàn dân: Đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. uân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Kháng chiến toàn diện: Đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định. 53 Kháng chiến lâu dài: Tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng, là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: Sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu. - Triển vọng kháng chiến: Cuộc kháng chiến có thể kéo dài, khó khăn, gian khổ, nhiều hy sinh, song nhất định thắng lợi sẽ thuộc về nhân dân Việt Nam. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. 54 Câu 15: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại Đại hội II (2-1951). * Hoàn cảnh lịch sử Năm 1951, tình hình thế giới và trong nước đã có những chuyển biến quan trọng, đặt ra các vấn đề thực tiễn và lý luận cấp bách, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã hình thành. Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hòa bình và phong trào cách mạng. Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ở trong nước, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Cách mạng Lào và Campuchia có những chuyển biến tích cực. Điều kiện lịch sử đó đặt ra cho Đảng Cộng sản Đông Dương các yêu cầu bổ sung và hoàn chính đường lối cách mạng phù hợp với mỗi nước ở Đông Dương để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng tiến hành Đại hội II (2-1951) để bổ sung đường lối kháng chiến. Đường lối đó được thể hiện trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. 55 * Nội dung cơ bản: - Chỉ rõ tính chất của xã hội Việt Nam: Xã hội Việt Nam lúc này có ba tính chất, gồm: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. - Xác định đối tượng cách mạng: Chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp và can thiệp Mỹ) và phong kiến phản động. - Nhiệm vụ cách mạng: Đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Những nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính lúc này là tập trung đấu tranh chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc. - Động lực cách mạng và giai cấp lãnh đạo: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc; ngoài ra còn có các thân sĩ yêu nước, tiến bộ. Trong đó, nền tảng là liên minh công, nông và lao động trí thức; công nhân là giai cấp lãnh đạo. - Đặc điểm của cách mạng: Cách mạng Việt Nam lúc này là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đây là quá trình lâu dài, có các giai đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung tâm, đó là: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cầy có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. 56 - Triển vọng cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn thành sẽ đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. * Ý nghĩa lịch sử Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam đã góp phần phát triển đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ra hoạt động công khai cùng với Chính cương đã lãnh đạo quân dân ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Câu 16: Nêu ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm về lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954). * Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ - Đối với nước ta Việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Pháp, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc chiến tranh ở 57 miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. - Đối với quốc tế Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp. * Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về lãnh đạo cách mạng và chiến tranh có ý nghĩa về sau có ý nghĩa về sau đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước. Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”; kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính. Kết hợp s?

Use Quizgecko on...
Browser
Browser