Full lí thuyết ktct PDF

Summary

This document discusses the subject, methodology, and functions of Marxist-Leninist political economy. It explores the historical development of this field, its object of study, and practical implications. The document also includes questions for review and further discussion on the topic.

Full Transcript

**CHƯƠNG 1** **ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC** **NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN** **A/ Mục đích của Chương** Chương 1 sẽ trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về sự ra đời và phát triển của môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin, về đối tượng nghiên cứu, phương pháp ngh...

**CHƯƠNG 1** **ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC** **NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN** **A/ Mục đích của Chương** Chương 1 sẽ trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về sự ra đời và phát triển của môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin, về đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và chức năng của khoa học kinh tế chính trị Mác - Lênin trong nhận thức cũng như trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức như vậy sẽ giúp cho sinh viên hình dung được một cách sáng rõ nội dung khoa học của môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin và ý nghĩa của môn học đối với bản thân mỗi người lao động cũng như quản lý khi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. **B/ Nội dung của chương** **1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của KTCT Mác- Lênin** - Thuật ngữ *Kinh tế chính trị (political economy)* xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XVII do tác giả Moncretien một nhà kinh tế học của trường phái Chủ nghĩa trọng thương đưa ra năm 1615. \- Kinh tế chính trị học tư sản bắt đầu từ Chủ nghĩa trọng thương là hệ thống lý luận kinh tế chính trị đầu tiên nghiên cứu về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng trọng thương chủ nghĩa thể hiện tập trung thông qua các chính sách kinh tế của nhà nước của giai cấp tư sản trong thời kỳ hình thành ban đầu. Chủ nghĩa trọng thương coi trọng vai trò của hoạt đông thương mại. Các đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa trọng thương bao gồm: Starfod (Anh); Thomasmon (Anh); Antoine Montchretien (Pháp). \- Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên lỗi thời. Vì theo đà phát triển của CNTB, cách thức chủ yếu để tang them của cải vật chất không chỉ đơn thuần là tích lũy tiền mà tài tái sản xuất mở rộng tư bản. Chủ nghĩa trong thương nhường chỗ cho Chủ nghĩa trọng nông. Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng nông là lĩnh vực sản xuất nhưng chỉ giới hạn trong sản xuất nông nghiệp. \- Kinh tế chính trị cổ điển Anh là hệ thống lý luận kinh tế của các nhà kinh tế tư sản trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường như hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền công, lợi nhuận... để rút ra những quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Đại biểu tiêu biểu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh gồm: W.Petty; A. Smith; D. Recardo. Đối tượng nghiên cứu của KTCT cổ điển là là bản chất và nguồn gốc của của cải và sự giàu có của các quốc gia. -Vào giữa thế kỷ 19, cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên (1825) và những cuộc khủng hoảng kinh tế tiếp theo đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của KTCT tư sản cổ điển. Trước bối cảnh đó, trong số nhiều trào lưu tư tưởng kinh tế chính trị học đã nổi lên 2 trào lưu cơ bản sau: Một là các nhà kinh tế học tiếp tục học thuyết tư sản, đổi mới phát triển nó dưới tên gọi "kinh tế học" và hai là Kinh tế chính trị học Mác Lênin. C.Mác (1818-1883) Ph.Awngghen (1820-1895) và VI.Leenin (1870-1924) **1.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của KTCT Mác-Lênin *1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin*** *Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội* *giữa người với người trong sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng*. -Kinh tế chính trị Mác-Leenin nghiên cứu QHSX trong mối liên hệ với LLSX. Bới vì giữa LLSX và QHSX có mối liên hệ biện chứng với nhau. Để từ đó biết được LLSX phát triển sẽ làm biến đổi QHSX như thế nào cũng như QHSX biến đổi như thế nào cho phù hợp với LLSX -KTCT Mác-Lênin nghiên cứu QHSX trong mối liên hệ với kiến trúc thượng tầng. -KTCT Mác-Leenin nghiên cứu QHSX bắt đầu từ những hiện tượng kinh tế cụ thể, phân tích để vạch ra các phạm trù kinh tế, các quy luật kinh tế, chi phối các hiện tượng và quá trình đó. *Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ bản chất, khách quan, lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế.* \+ Quy luật kinh tế mang tính khách quan: *(Con người không thể tự tạo ra quy luật kinh tế, cũng như không thể tự ý xóa bỏ quy luật kinh tế)* \+ Quy luật kinh tế mang tính lịch sử *(Quy luật kinh tế không tồn tại vình viễn mà tồn tại trong một thời kỳ lịch sử nhất định, ví dụ quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ chỉ tồn tại trong kinh tế hang hóa)* ***1.2.2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác -- Lênin*** - *Phương pháp luận duy vật biện chứng*. Đây là phương pháp yêu cầu việc nghiên cứu các khía cạnh thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị phải đặt trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và phát triển không ngừng. Đây là phương pháp luận đặc biệt quan trọng được áp dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị để giúp cho các kết quả nghiên cứu rút ra tránh rơi vào tình trạng chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật kinh tế. \- *Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử*, đây là phương pháp được sử dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội cũng như trong kinh tế chính trị Mác - Lênin. Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử cho phép khám phá bản chất, các xu hướng và quy luật kinh tế gắn với tiến trình hình thành, phát triển của chúng, cho phép rút ra những kết quả nghiên cứu mang tính lôgíc từ trong tiến trình lịch sử của các quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi. *Phương pháp trừu tượng hóa khoa học*. Do kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu các quan hệ xã hội giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi của một nền sản xuất nhất định. Đây là các quan hệ trừu tượng. Vì vậy, khác với các môn khoa học khác, ở đó, để tìm ra bản chất, tính quy luật và quy luật của đối tượng nghiên cứu, người ta có thể sử dụng các biện pháp thực nghiệm; đối với kinh tế chính trị Mác - Lênin, việc thực nghiệm là không thể. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Lẽ dĩ nhiên, trừu tượng hóa khoa học cũng được sử dụng nhiều ở các môn khoa học khác. Tuy nhiên, với kinh tế chính trị Mác - Lênin, đây là phương pháp phổ biến. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là một trong những phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, trong đó có kinh tế chính trị Mác - Lênin, mà khi sử dụng phương pháp này đòi hỏi sự gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong các hiện tượng quá trình nghiên cứu, để từ đó tách ra được những hiện tượng bền vững, mang tính điển hình, ổn định của đối tượng nghiên cứu. Từ đó mà nắm được bản chất, xây dựng được các phạm trù và khám phá được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu. **1.3. Chức năng của KTCT Mác \_Lênin** *- Chức năng nhận thức* Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức khoa học về sự vận động của các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi; về sự liên hệ tác động biện chứng giữa các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng trong những nấc thang phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội. Kinh tế chính trị Mác - Lênin khám phá những quy luật chi phối sự phát triển của sản xuất và trao đổi. Những tri thức như vậy sẽ giúp khám phá và nhận thức một cách đúng đắn lịch sử phát triển của sản xuất và phát triển của nhân loại nói chung, về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Những tri thức của kinh tế chính trị với tư cách là tri thức lý luận nền tảng sẽ giúp nhận thức sâu sắc về bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế diễn ra trên bề mặt nền kinh tế xã hội; phân tích làm rõ những nguyên nhân sâu xa của sự giàu có của các quốc gia trong sự liên hệ với thế giới; khái quát những triển vọng và xu hướng phát triển kinh tế xã hội trong những giai đoạn lịch sử và những bối cảnh phát triển mới. Với ý nghĩa như vậy, những tri thức của kinh tế chính trị Mác - Lênin sẽ tạo lập cơ sở khoa học, nền tảng lý luận, phương hướng cho sự hình thành các chính sách kinh tế, định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế nói riêng và thúc đẩy văn minh xã hội nói chung. Trong trường hợp Việt Nam, nếu các chính sách kinh tế được hoạch định mà không dựa trên cơ sở tri thức lý luận của kinh tế chính trị Mác \- Lênin sẽ khó có thể mang lại hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội lâu dài. *- Chức năng tư tưởng* Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần tạo lập nền tảng tư tưởng cộng sản cho những người lao động tiến bộ và yêu chuộng tự do, yêu chuộng hòa bình, củng cố niềm tin cho những ai phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho những ai có mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ dần những áp bức, bất công giữa con người với con người. *- Chức năng thực tiễn* \+ Sau khi nhận thức được các quy luật sẽ giúp cho người lao động cũng như những nhà hoạch định chính sách biết vận dụng các quy luật kinh tế ấy vào trong thực tiễn hoạt động lao động cũng như quản trị quốc gia của mình. \+ Quá trình vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông qua điều chỉnh hành vi cá nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. \+ Kinh tế chính trị Mác - Lênin, theo nghĩa đó mang trong nó chức năng cải tạo thực tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội. Thông qua giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong quá trình phát triển mà luôn tạo động lực để thúc đẩy từng các nhân và toàn xã hội không ngừng sáng tạo, từ đó cải thiện không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội. *- Chức năng phương pháp luận* Kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận là nền tảng lý luận khoa học cho việc tiếp cận các khoa học kinh tế chuyên ngành. **Chủ đề thảo luận:** Chỉ ra sự liên hệ giữa kinh tế chính trị Mác - Lênin trong hệ thống các khoa học kinh tế? **Câu hỏi ôn tập:** 1\. Phân tích sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác - Lênin? 2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin? Chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lênin với tư cách là một môn khoa học? 3. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin trong quá trình lao động và quản trị quốc gia? **CHƯƠNG 2** **HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG** **A/ Mục đích của chương** Chương này nhằm cung cấp một cách có hệ thống về lý luận giá trị lao động của C.Mác thông qua các phạm trù cơ bản về hàng hóa, tiền tệ, giá cả, quy luật giá trị, tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa, năng suất lao động... giúp cho việc nhận thức một cách căn bản cơ sở lý luận của các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở đó góp phần vận dụng để hình thành tư duy và kỹ năng thưc hiện hành vi kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan của công dân khi tham gia các hoạt động kinh tế -xã hội nói chung. Đây cũng là căn cứ mà trên cơ sở đó có thể tiếp tục bổ sung, làm sâu sắc thêm một số khía cạnh lý luận của C.Mác về hàng hóa, giá trị hàng hóa mà thời của mình, do hoàn cảnh khách quan, C.Mác chưa có điều kiện để nghiên cứu một cách sau sắc như trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những quy luật củ kinh tế thị trường hiện nay. **B/ Nội dung chương** 2.1 LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA **2.1.1 Sản xuất hàng hóa** ***Sản xuất hàng hóa, điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa*** *[Khái niệm]* Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó những người sản xuất ra sản phẩm không phải để tiêu dùng cho bản thân mà để trao đổi, mua bán trên thị trường. Sản xuất hàng hóa chỉ tồn tại và phát triển trong một số phương thức sản xuất xã hội, gắn liền với những điều kiện lich sử nhất định. *Đ[iều kiện ra đời và tồn tại sản xuất hang hóa]* Theo Mác, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất. *- **Phân công lao động xã hội*** là **sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau**, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định. Trong khi đó, nhu cầu của họ lại đòi hỏi nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, giữa những người sản xuất cần có sự trao đổi sản phẩm với nhau. Như vậy, phân công lao động xã hội làm xuất hiện mối quan hệ trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đối sản phẩm càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Vì vậy, phân công lao động xã hội đóng vai trò là cơ sở cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa. *- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất* làm cho giữa **những người sản xuất độc lập** với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Nói cách khác, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất đòi hỏi việc trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, ngang giá, hai bên đều có lợi; tức là trao đổi mang hình thái trao đổi hàng hóa. Như vậy, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên. Thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm của lao động cũng không mang hình thái hàng hóa ***Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa*** ***-*** Sản xuất hàng hóa là sản xuất sản phẩm cho người khác, sản xuất để bán trên thị trường nên việc mở rộng quy mô sản xuất không bị hạn chế bởi nhu cầu hạn hẹp của người sản xuất. Chính nhu cầu lớn và không ngừng tăng lên là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa. ***-*** Sản xuất hàng hóa gắn liền với cạnh tranh nên buộc người sản xuất phải năng động trong sản xuất kinh doanh; phải **thường xuyên cải tiến kỹ thuật**, hợp lý hóa sản xuất để **tăng năng suất lao động**, **nâng cao chất lượng sản phẩm** nhằm bán được nhiều hàng hóa và thu được nhiều lợi nhất; từ đó, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đây là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển sản xuất xã hội. ***-*** Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động và lại **thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động**, **phát triển chuyên môn hóa**, tạo điều kiện để phát huy thế mạnh, phát huy lợi thế so sánh của mỗi cá nhân, mỗi đơn vị sản xuất cũng như các khu vực, các vùng kinh tế. ***-*** Sản xuất và trao đổi hàng hóa gắn với tính chất **mở của các quan hệ kinh tế**, các quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho không gian giao lưu kinh tế giữa các khu vực, các nước, các địa phương ngày càng mở rộng. Tính chất mở là đặc trưng của các quan hệ hàng hóa tiền tệ, mở trong quan hệ giữa những người sản xuất, giữa các doanh nghiệp, các địa phương, giữa các vùng và với nước ngoài. Từ đó, quan hệ hàng hóa tiền tệ tạo nên sự "sống động" của nền kinh tế, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, sản xuất hàng hóa cũng còn tồn tại nhiều mặt trái và cả những tác động tiêu cực đối với đời sống kinh tế, xã hội như **phân hóa giàu nghèo** giữa những người sản xuất; chạy theo lợi ích cá nhân làm **tổn hại đến các giá trị đạo đức truyền thống**; sản xuất không kiểm soát được **tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối**, **khủng hoảng kinh tế**, **phá hoại môi trường sinh thái**... Những tác động tiêu cực đó có thể hạn chế được nếu có vai trò quản lý, điều tiết từ một chủ thể chung của toàn bộ nền kinh tế là nhà nước. **2.1.2 Hàng hóa** ***2.1.2.1 Hàng hóa và 2 thuộc tính của hang hóa*** ***K[hái niệm ]*** *Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. **Hàng hóa là phạm trù lịch sử**; sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái hàng hóa khi được trao đổi, mua bán trên thị trường*. Hàng hóa có thể sử dụng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu cho sản xuất. Khi sử dụng cho tiêu dùng cá nhân gọi là hàng tiêu dùng; khi tiêu dùng cho sản xuất gọi là tư liệu sản xuất. Hàng hóa khi có những thuộc tính, chức năng đặc biệt thì được gọi là hàng hóa đặc biệt. **Hàng hóa** có thể tồn tại ở dạng **vật thể hữu hình** (hàng hóa thông thường) hoặc ở dạng **phi vật thể** (hàng hóa dịch vụ). Bất cứ hàng hóa nào cũng bao gồm hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. ***H[ai thuộc tính của hàng hóa]*** *Giá trị sử dụng* của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người; có thể là nhu cầu vật chất hoặc tinh thần; có thể là nhu cầu tiêu dùng cá nhân như lương thực, thực phẩm, quần áo... hoặc tiêu dùng cho sản xuất như nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất\... Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định và là nội dung vật chất của của cải. Vì vậy giá trị sử dụng của hàng hóa là **phạm trù cụ thể**, ta có thể cảm nhận được bằng các giác quan của con người. Giá trị sử dụng là nội dung vật chất của của cải, nhưng việc phát hiện và sử dụng những thuộc tính đó tùy thuộc **vào trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật** và **lực lượng sản xuất**. Xã hội càng tiến bộ, khoa học kỹ thuật, phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại càng phong phú, đa dạng, chất lượng càng cao. Ví dụ than đá hoặc dầu mỏ ban đầu chỉ được dùng làm chất đốt; về sau nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật chúng được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, có nhiều công dụng khác nhau cũng như rất nhiều sản phẩm được làm ra từ than đá, dầu mỏ. **Giá trị sử dụng** chỉ được thực hiện khi con người **sử dụng hay tiêu dùng** hàng hóa. Khi chưa tiêu dùng, giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng ở trạng thái khả năng biến **thành giá trị sử dụng hiện thực**, hàng hóa phải được đưa **vào tiêu dùng**. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất. Giá trị sử dụng là thuộc tính gắn liền với vật thể hàng hóa, nhưng không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hóa, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho người mua, tức là giá trị sử dụng xã hội. Để giá trị sử dụng của hàng hóa đi vào tiêu dùng thì trước tiên hàng hóa phải được trao đổi, mua bán trên thị trường. Điều này đòi hỏi người sản xuất phải quan tâm, đáp ứng đúng nhu cầu, thị hiếu của người mua, người tiêu dùng. Có như vậy sản phẩm hàng hóa mới được người mua, người tiêu dùng chấp nhận. ***Giá trị của hàng hóa*** là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí đề sản xuất ra hàng hóa hay lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Vật gì không do lao động của con người tạo ra, không phải là sản phẩm của lao động thì không có giá trị. Giá trị ẩn chứa bên trong giá trị sử dụng của hàng hóa nên là **phạm trù trừu tượng**. Giá trị chỉ được biểu hiện ra **bên ngoài thông qua trao đổi**, mua bán hay được biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, một tỷ lệ trao đổi giữa những giá trị sử dụng khác nhau. Ví dụ 1m vải = 20 kg thóc. Về mặt vật chất, không thể so sánh giữa giá trị sử dụng của vải với giá trị sử dụng của thóc được vì chúng khác nhau về chất. Giữa vải và thóc có thể so sánh, trao đổi được với nhau bởi chúng có điểm chung đều là **sản phẩm của lao động**. Trong mối quan hệ trao đổi đó, hao phí lao động để làm ra 1m vải bằng với hao phí lao động để sản xuất ra 20 kg thóc. Ở đây, lao động của người sản xuất vải và lao động của người sản xuất thóc được quy thành lao động chung, đồng nhất của con người làm cơ sở để so sánh, trao đổi vải và thóc với nhau. Như vậy, bản chất của *giá trị **là lao động của người sản xuất kết tinh** trong hàng hóa*. Giá trị hàng hóa là biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa. **Giá trị là phạm trù lịch sử**; **chỉ khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa** thì mới có giá trị hàng hóa. **Giá trị trao đổi** chỉ là hình thức **biểu hiện ra bên ngoài của giá** **trị**; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định, sẽ xuất hiện một hàng hóa đặc biệt dùng để đo giá trị của các hàng hóa là tiền tệ. Khi tiền xuất hiện, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định, gọi là giá cả hàng hóa. ***2.1.2.2 Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa*** Hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. *Lao động cụ thể* là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích lao động riêng, đối tượng lao động riêng, công cụ lao động riêng, phương pháp lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. \+ Các loại lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa \+ Tất cả lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì xã hội càng nhiều ngành nghề khác nhau, do đó có nhiều giá trị sử dụng khác nhau. \+ Lao động cụ thể là **phạm trù vĩnh viễn**, là điều kiện sản xuất không thể thiếu của bất kỳ hình thái kinh tế xã hộ nào. Khoa học kỹ thuật, phân công lao động càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng. *Lao động trừu tượng* là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức cụ thể của nó. Đó là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hoá nói chung về cơ bắp, thần kinh, trí óc. Lao động trừu tượng chính là lao động chung, đồng nhất của con người. Tuy nhiên, không phải sự tiêu hao sức lao động nào cũng là lao động trừu tượng; chỉ sự tiêu phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa mới là lao động trừu tượng. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Vì vậy, giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Lao động trừu tượng là **phạm trù lịch sử**, **chỉ có trong sản xuất và trao đổi hàng hóa** bởi vì, chỉ trong sản xuất và trao đổi hàng hóa mới cần quy các lao động khác nhau thành lao động chung, đồng nhất làm cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to lớn, giúp cho lý luận giá trị - lao động của Mác có một cơ sở khoa học thực sự. Phát hiện về tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giải thích được những hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tiễn như sự vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi. **Lao động cụ thể và lao động trừu tượng** là hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, **phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội** của một lao động thống nhất. Lao động cụ thể phản ánh **tính chất tư nhân** của lao động sản xuất hàng hóa bởi **việc sản** **xuất cái gì, ở đâu, bao nhiêu, bằng công cụ nào... là việc riêng của mỗi người**. Ngược lại, lao động trừu tượng phản ánh **tính chất xã hội** của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống **phân công lao động xã hội**. **Phân công lao động xã hội** tạo ra sự liên hệ, **phụ thuộc lẫn nhau** giữa những người sản **xuất thông qua trao đổi.** Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào **lao động cụ thể** mà phải quy về lao động chung đồng nhất là **lao động trừu tượng.** Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra **không phù hợp với nhu cầu xã hội**, hoặc khi **mức tiêu hao lao động cá biệt cao hơn mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận** được. Khi đó sẽ có một số hàng hóa không bán được hoặc bán thấp hơn mức hao phí lao động đã bỏ ra, không đủ bù đắp chi phí. Nghĩa là có một số **hao phí lao động cá biệt không được xã hội thừa nhận**, hay nói khác đi, **lao động tư nhân** không trở thành **lao động xã hội.** **Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội** là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính những mâu thuẫn đó làm cho sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng **"sản xuất thừa".** ***2.1.2.3 Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.*** ***Thước đo lượng giá trị của hàng hóa*** *K[hái niệm]* Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Lượng lao động đã tiêu hao đó được đo bằng thời gian lao động, nhưng không đo bằng thời gian lao động cá biệt mà đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết *Thời gian lao động cá biệt là* thời gian sản xuất ra một đơn vị hàng hóa của từng người sản xuất cá biệt. Do điều kiện sản xuất của mỗi người sản xuất là khác nhau nên thời gian lao động cá biệt cũng khác nhau *Thời gian lao động xã hội cần thiết* là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình trong những điều kiện bình thường của xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động trung bình trong xã hội để sản xuất ra một sản phẩm. Trên thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa thường trùng hợp với mức hao phí lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bội phận sản phẩm đó trên thị trường. Vì vậy, người nào đưa ra thị trường nhiều sản phẩm nhất sẽ là người quyết định giá mua bán của sản phẩm. *[Cấu thành **lượng giá trị hàng hóa**]* Hao phí lao động để sản xuất hàng hóa gồm hao phí về lao động vật hóa dưới dạng nhà xưởng, máy móc, công cụ lao động, nguyên nhiên vật liệu... và hao phí lao động sống. Trong quá trình sản xuất, hao phí lao động vật hóa được chuyển sang sản phẩm dưới dạng khấu hao về máy móc, nhà xưởng, công cụ lao động, chi phí về nguyên, nhiên vật liệu, ký hiệu c; còn **hao phí về lao động sống** của người lao động tạo ra giá trị mới, được kết tinh trong hàng hóa, **ký hiệu (v + m).** Như vậy, **giá trị của hàng** hóa bao gồm hao phí lao động quá khứ (c) cộng với hao phí lao động sống hay giá trị mới được tạo ra (v+m). Lượng giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng c + v + m. ***Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa*** Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng giá trị hàng hóa cũng thay đổi. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết và do đó, ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa như năng suất lao động, cường độ lao động, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ khoa học công nghệ, điều kiện, môi trường lao động... Về nguyên tắc, có ba nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là **năng suất lao động, cường độ lao động và tính chất của lao động.** ***Thứ nhất, năng suất lao động**.* Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một sản phẩm. Tăng năng suất lao động là tăng năng lực sản xuất của người lao động. Tức là trong cùng một đơn vị thời gian, người lao động làm nhiều sản phẩm hơn trước, hay thời gian hao phí lao động để sản xuất ra một sản phẩm ít hơn trước. Năng suất lao động là thước đo mức độ hiệu quả của hoạt động sản xuất trong một thời gian nhất định. Năng suất lao động phản ánh khả năng có ích, hiệu quả có ích của lao động là làm được bao nhiêu sản phẩm nhưng phải đảm bảo quy cách, phẩm chất, kỹ thuật của sản phẩm. Năng suất lao động có tác động tỷ lệ nghịch với giá trị của một hàng hóa. Khi năng **suất lao động tăng, số lượng sản phẩm** được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian **nhiều hơn** nên **hao phí lao động để sản xuất ra một sản phẩm ít hơn**, lao động kết tinh trong một sản phẩm giảm xuống, do đó **giá trị của một sản phẩm giảm** nhưng **tổng giá trị không đổi.** Năng suất lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố khoa học kỹ thuật, công cụ, phương tiện lao động, trình độ người lao động, trình độ tổ chức quản lý sản xuất... Muốn tăng năng suất lao động phải phát triển các yếu tố trên, đặc biệt là áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến công cụ, phương tiện lao động, đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao trình độ người lao động... ***Thứ hai, cường độ lao động**.* Cường độ lao động là chỉ tiêu phản ánh mức độ sức lực lao động bỏ ra trong một đơn vị thời gian. Cường độ lao động được đo bằng mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian, hay hao phí lao động sống trong một đơn vị thời gian. **Hao phí lao động sống** là hao phí về sức lực, sức cơ bắp, sức thần kinh của người lao động trong quá trình sản xuất; thường được đo bằng số calo (đơn vị đo năng lượng) hao phí trong một thời gian nhất định. Cường độ lao động nói lên mức độ khẩn trương, nặng nhọc, căng thẳng của lao động. Do đó, tăng cường độ lao động là tăng mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. **Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.** Cường độ lao động có tác động **tỷ lệ thuận** với tổng giá trị hàng hóa được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian nhất định. Khi **cường độ lao động tăng**, **hao phí lao động cũng tăng lên**, **khối lượng hàng hóa** cũng tăng tương ứng. Vì vậy, **hao phí lao động để làm ra một sản phẩm** không đổi nhưng **tổng giá trị hàng hóa tăng lên**. Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động... Nếu giải quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần thục hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều sản phẩm hơn. ***Thứ ba, tính chất hay mức độ phức tạp của lao động.*** Trong đời sống xã hội có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Căn cứ tính chất của lao động có thể chia các loại lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động không cần quá trình đào tạo đặc biệt cũng có thể làm được. Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách thông thường mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải được đào tạo cũng có thể làm được. Lao động phức tạp là những loại lao động phải trải qua một quá trình đào tạo theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Đây là lao động phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề. Trong cùng một đơn vị thời gian, một lao động phức tạp sẽ phải vận dụng các kỹ năng về thể chất và tinh thần nhiều hơn so với một lao động giản đơn nên mức độ hao phí lao động sẽ nhiều hơn. Vì vậy trong cùng một đơn vị thời gian, một lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn một lao động giản đơn. Sản phẩm của lao động phức tạp vì vậy sẽ có giá trị cao hơn sản phẩm của lao động giản đơn. **2.1.2.4 Một số loại hàng hóa đặc biệt** ***2.1.4.1 Hàng hóa dịch vụ*** Trong các nền kinh tế hiện đại, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình còn có những hàng hóa **phi vật thể, vô hình**, được trao đổi, mua bán trên thị trường. Những loại hàng hóa này được gọi là **hàng hóa dịch vụ**. Do tính chất đa dạng, phức tạp và vô hình của dịch vụ nên hiện nay vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tuy chưa thống nhất về khái niệm, song về cơ bản các nghiên cứu đều cho rằng, dịch vụ là các hoạt động lao động của con người được thực hiện trong các sản phẩm vô hình nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của con người. Dịch vụ được coi là hàng hóa đặc biệt do các thuộc tính sau: Dịch vụ là hàng hóa vô hình không thể cầm nắm được. Nếu như các hàng hóa thông thường đều có tính chất cơ, lý, hóa học... nhất định; có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể để người mua có thể nhìn, nghe, ngửi, nếm hay chạm vào trước khi mua, thì hàng hóa dịch vụ lại không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những sản phẩm cụ thể, không nhìn thấy được. Hàng hóa dịch vụ cũng **không thể xác định chất lượng trực tiếp** bằng những **chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa**. Người cung cấp dịch vụ (người bán) chỉ có thể đưa ra **lời hứa hẹn**; ví dụ như kiểu tóc này sẽ rất hợp với bạn, hàng sẽ được chuyển đến nơi chu đáo, bệnh nhân sẽ được khám chữa tận tình Hàng hóa dịch vụ **không thể tách rời nhà cung cấp dịch vụ**. Quá trình sản xuất (cung cấp) dịch vụ hướng vào phục vụ trực tiếp người tiêu dùng với tư cách là những khách hàng, nên quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Chất lượng dịch vụ mang tính không đồng nhất, không ổn định và khó xác định. Dịch vụ luôn gắn chặt, không tách rời người cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, đối với cùng một cá nhân cung ứng dịch vụ thì **chất lượng dịch vụ cũng không hoàn toàn ổn định**, đôi khi cũng thay đổi theo **thời gian hoặc hoàn cảnh cụ thể**. Chất lượng dịch vụ phụ thuộc chặt chẽ vào người thực hiện dịch vụ, nên cảm nhận của người tiêu dùng về nhà cung cấp dịch vụ trở thành cảm nhận về chính dịch vụ đó. Ví dụ cảm nhận về uy tín, tên tuổi của bác sỹ, luật sư, ca sỹ... luôn đồng nghĩa với chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp. Dịch vụ là hàng hóa **không thể tích lũy lại hay lưu trữ**. Các hàng hóa thông thường sau khi được sản xuất ra chưa đi vào tiêu dùng ngay, có thể trải qua quá trình lưu thông, cất trữ, vận chuyển đi nơi khác theo nhu cầu thị trường. Hàng hóa dịch vụ do **không tồn tại độc lập dưới dạng hữu hình** nên **không thể lưu trữ được**. Quá trình sản xuất cũng đồng thời là quá trình tiêu dùng; do vậy không thể sản xuất hàng hóa dịch vụ hàng loạt và lưu trữ trong kho sau đó mới tiêu dùng. Vì lý do này, các nhà cung cấp dịch vụ thường nâng giá dịch vụ khi nhu cầu lên cao nhất và giảm giá mạnh vào mùa vắng khách. Dịch vụ tạo ra lợi ích nhưng không bao gồm sở hữu. Khi sử dụng một dịch vụ, người mua không mua theo kiểu "*mua đứt bán đoạn*" mà chỉ chi trả cho hình thức sử dụng tạm thời, mang tính *"thuê mướn"*. Chẳng hạn khi khám chữa bệnh với một bác sĩ, người mua không có quyền sở hữu con người bác sĩ bằng xương bằng thịt ấy. Khi nghỉ ngơi tại một phòng khách sạn trong chuyến đi du lịch, người mua phải trả tiền nhưng không được sở hữu căn phòng đang thuê. Ở đây, người mua chỉ chi trả để thuê mướn chuyên gia, cơ sở vật chất nhằm sử dụng dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và tiêu dùng, dịch vụ cũng ngày càng đa dạng, phong phú và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực dịch vụ và những hàng hóa khác làm cho quy mô và cơ cấu hàng hóa, dịch vụ tăng lên, nhu cầu của xã hội và dân cư được thỏa mãn ngày càng tốt hơn. 2.1.4.2 ***Đất đai*** Đất đai theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ đất sản xuất (đất canh tác), đất xây dựng, làm giao thông, tài nguyên khoáng sản... Đất đai là một trong những yếu tố cơ bản của sản xuất, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế trong sản xuất nông -- lâm nghiệp. Đất đai cũng là tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia quý báu; là địa bàn để phân bố dân cư và các lĩnh vực kinh tế, văn hóa -- xã hội, quốc phòng -- an ninh và là thành quả lao động, chiến đấu của nhiều thế hệ tạo lập nên, gắn với chủ quyền quốc gia. Bản thân đất đai không phải là sản phẩm của lao động nên không có giá trị. Tuy nhiên, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn nhất định thì đất đai cũng được trao đổi, mua bán như các hàng hóa khác. Sở dĩ đất đai không có giá trị song vẫn có giá cả, vẫn là đối tượng trao đổi, mua bán vì nó có khả năng đem lại thu nhập (hoặc lợi ích) cho người sở hữu chúng. Vì vậy, đất đai được coi là một loại hàng hóa đặc biệt. Tính đặc biệt của hàng hóa này còn thể hiện ở chỗ: Đất đai có vị trí cố định nên là loại **hàng hóa không thể di dời được**. Các hàng hóa khác, người bán, người mua có thể dễ dàng đem hàng hóa về nơi nào tùy ý; nhưng với đất đai thì không thể di dời được, mà chủ nhân của nó phải chuyển đến nơi có đất đai. Hàng hóa đất đai **không thể đem ra thị trường để trưng bày** như các loại hàng hóa khác mà phải giới thiệu thông qua mô tả bằng mô hình, hình ảnh, bản vẽ hoặc các mô tả khác. Giá cả đất đai **phụ thuộc vào thu nhập (hoặc lợi ích) mà đất đai đưa lại**. Khả năng đưa lại lợi ích của đất đai lại phụ thuộc vào **mục đích sử dụng chúng**, phụ thuộc vào **sự tác động của con người** đến khả năng sinh lời của đất. Khi đất đai được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp hoặc lâm nghiệp thường có giá cả thấp hơn so với cũng đất đai đó được sử dụng để phát triển nhà ở hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Đất đai là hàng hóa có **số lượng hữu hạn và chất lượng** (độ màu mỡ, phì nhiêu) **biến động theo thời gian, phụ thuộc vào việc sử dụng của con người**. Đất đã được đầu tư, thâm canh có giá cao hơn đất mới khai phá; đất đã được quy hoạch có giá cả cao hơn đất chưa có quy hoạch sử dụng. Giá cả đất đai còn mang tính địa điểm và tính địa phương rất cao. Cùng một loại đất nhưng ở những địa điểm khác nhau, địa phương khác nhau thì giá cả cũng rất khác nhau. Đất ở trung tâm kinh tế, chính trị có giá cả cao hơn đất khu vực ngoại vi... ***2.1.4.3 Cổ phiếu, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác*** Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của một cổ đông về số tiền đã góp vào một công ty cổ phần. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Số tiền ghi trên cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, đảm bảo cho người sở hữu chúng được quyền lĩnh một phần thu nhập từ kết quả hoạt động của công ty. Thu nhập từ cổ phiếu được gọi là lợi tức cổ phiếu (cổ tức). Lợi tức cổ phiếu không cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Thông thường, lợi tức cổ phiếu phải cao hơn lợi tức gửi ngân hàng; nếu không, người có tiền sẽ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lợi tức an toàn hơn mà không mạo hiểm đầu tư vào việc mua cổ phiếu. Trên thực tế có nhiều loại cổ phiếu khác nhau tùy theo cách phân chia. Cổ phiếu có ghi tên cổ đông gọi là **cổ phiếu ghi danh**; không ghi tên gọi là **cổ phiếu vô danh**. Dựa vào quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty có thể chia ra **cổ phiếu thường** và **cổ phiếu** **ưu đãi**. Dựa vào vai trò trong hoạt động công ty có thể chia ra cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu sáng lập... Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người sở hữu trái phiếu (người cho vay) một khoản tiền cụ thể, trong một thời gian xác định với một lợi tức quy định. Người phát hành trái phiếu có thể là doanh nghiệp, trong trường hợp này gọi là **trái phiếu doanh nghiệp**; có thể là một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước thì gọi là **trái phiếu kho bạc**; nếu chính phủ phát hành gọi là **trái phiếu chính phủ**. Như vậy, trái phiếu là khoản vay của một công ty. Số tiền vay ghi trên trái phiếu là mệnh giá của trái phiếu. Người mua trái phiếu là trái chủ. Trái chủ là người cho nhà phát hành vay để hưởng **lợi tức cố định**. Khác với người mua cổ phiếu là người chủ sở hữu công ty, trái chủ **không chịu bất cứ trách nhiệm** nào về **kết quả sử dụng vốn** của người vay. Thu nhập từ trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết quả sản xuất của công ty. Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi công ty phát hành trái phiếu bị giải thể hoặc phá sản thì trước hết công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các cổ đông. Với những điều kiện trên, trái phiếu có tính ổn định và ít rủi ro hơn cổ phiếu. Trên thị trường, cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán có giá khác như tín phiếu, công trái, giấy vay nợ... đều có thể được mua bán. Thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá này gọi là thị trường chứng khoán. Khi mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán có giá, người ta không dựa vào giá trị danh nghĩa ghi trên những giấy tờ này, mà dựa vào lợi tức mà chúng đưa lại cho người sở hữu. Thông thường giá mua bán cổ phiếu, trái phiếu được xác định bằng số tiền mà nếu đem gửi vào ngân hàng sẽ thu được lãi suất bằng với lợi tức mà cổ phiếu, trái phiếu đưa lại. Ví dụ, một cổ phiếu mỗi năm đem lại lợi tức là 50 USD và lãi suất gửi ngân hàng tại thời điểm đó là 5% một năm; trên thị trường, cổ phiếu đó sẽ được bán với giá là: Cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán có giá được gọi là **tư bản giả** bởi tự bản thân chúng không có giá trị. Giá trị danh nghĩa ghi trên cổ phiếu, trái phiếu chỉ là bản sao, là sự ghi chép lại giá trị thật của chúng đã đầu tư vào sản xuất. **Tư bản thật** được đầu tư vào sản xuất dưới hình thức **nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu**... Sự vận động của **tư bản thật gắn liền với sự vận động của sản xuất**, còn các **tư bản giả tồn tại** **bên ngoài sản xuất**, không tham gia vào quá trình sản xuất, chỉ là một tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu và quyền được hưởng thu nhập sau một thời gian nhất định. **2.1.3 Tiền tệ** ***2.1.3.1.Lịch sử ra đời và bản chất của tiền*** Tiền tệ là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn đến hình thái phát triển cao nhất là hình thái tiền tệ. \- ***Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị*** 1 m vải = *10 kg thóc* \+ Hàng hóa vải là hình thái **giá trị tương đối** ( vì bản thân nó không thể tự nói lên giá trị của mình mà phải thông qua hàng hóa thóc) \+ Hàng hóa thóc: đóng vai trò là vật ngang giá, đo lường và biểu thị giá trị hàng hóa vải. \- ***Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị*** = 10kg thóc 1 m vải = 2 con gà = 1 cái riu = 0,2 gam vàng \- Khi phân công lao động xã hôi lớn lần thứ nhất xuất hiện, tách chăn nuôi ra khỏi trồng trọt việc trao đổi trở nên thường xuyên hơn. Một hàng hóa có thể đem so sánh với nhiều hàng hóa khác, tức là giá trị của 1 hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung nhưng vẫn là trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. ***- Hình thái giá trị chung*** 1 cái áo = 10 đấu chè = 40 đấu cà phê = 0,2 gam vàng = *20m vuông vải* -Vào thời kỳ suy tàn của chế độ công xã nguyên thủy, những nhước điểm của hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng càng thể hiện rõ nét. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, xuất hiện một nhu cầu là những người chủ hàng hóa phải tìm được một loại hàng hóa nào mà được nhiều người ưa thích để đổi hàng hóa của mình lấy hàng hóa đó. Sau đó, dùng hàng hóa ấy để đổi lấy thứ hàng hóa mà mình cần. Như vậy việc trao đổi không còn là trực tiếp nữa, mà phải qua một bước trung gian. ***- Hình thái tiền*** \- LLSX phát triển =\> phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai đẩy mạnh sự phát triển sản xất và lưu thông hàng hóa giữa các vùng =\> yêu cầu phải có vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng \- Vật ngang giá chung được cố định ở một hàng hóa đặc biệt, khi đó xuất hiện hình thái tiền thay thế cho hình thái giá trị chung (có nhiều hàng hóa đóng vai trò này nhưng cuối cùng cố định ở vàng) 1 cái áo = 10 đấu chè = 40 đấu cà phê = 20 vuông vải = ***Bản chất của tiền*** *0,2 gam vàng* 🡪 *Bản vị vàng* Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, được tách ra trong thế giới hàng hóa để làm **vật ngang giá chung** cho tất cả các hàng hóa, nó đo lường và biểu thị giá trị của hàng hóa và biểu thị mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa*.* ***2.1.3.2 Các chức năng của tiền*** \- ***Thước đo giá trị***. Làm chức năng thước đo giá trị, tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các hàng hóa khác nhau. Lúc này, **giá trị của hàng hóa** được biểu hiện bằng một số lượng tiền nhất định gọi là **giá cả hàng hóa**. *- **Phương tiện lưu thông***. Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền được dùng làm môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa không phải tiến hành trực tiếp hàng lấy hàng (H -- H) mà thông qua tiền làm môi giới **(H -- T -- H).** Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đầy đủ giá trị, mà chỉ cần tiền ký hiệu giá trị, tức **tiền giấy**. Điều này ít gây tốn kém và giúp cho trao đổi được tiến hành dễ dàng, thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển hơn nữa. \- ***Phương tiện cất trữ*.** Tiền là đại diện cho giá trị, đại diện cho của cải nên khi tiền xuất hiện, thay vì cất trữ hàng hóa, người dân có thể **cất trữ bằng tiền**. Lúc này tiền được rút ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới **hình thái vàng, bạc** và sẵn sàng **tham gia lưu thông khi cần thiết**. \- ***Phương tiện thanh toán**.* Làm chức năng thanh toán, tiền được dùng để **chi trả** sau khi việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành, tức thanh toán việc mua bán chịu. Chức năng phương tiện thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức mua bán thông qua chế độ tín dụng, **thanh toán không dùng tiền mặt** mà chỉ dùng tiền trên **sổ sách kế toán**, hoặc **tiền trong tài khoản, tiền ngân hàng, tiền điện tử**... \- ***Tiền tệ thế giới***. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các nước thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm công cụ mua bán, **thanh toán quốc tế** giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là **phương tiện thanh toán quốc tế.** **2.2 THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG** **2.2.1 Khái niệm và vai trò của thị trường** ***2.2.1.1 Khái niệm về thị trường*** *Theo nghĩa hẹp*, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận được thứ mà mình cần và ngược lại, người có hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận được một số tiền tương ứng. Như vậy, thị trường có thể là chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động, văn phòng giao dịch hay siêu thị; cũng có thể, thị trường là chỗ ta đang ngồi gọi điện thoại hỏi giá cả, thoả thuận đặt hàng, yêu cầu chở hàng đến một nơi nào đó. Theo nghĩa này, thị trường là hữu hình, phù hợp giai đoạn thị trường mới hình thành. *Theo nghĩa rộng*, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm **cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng, tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài nước**... Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu (người mua hàng); người bán; tiền - hàng; dịch vụ mua bán... Tất các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận động theo quy luật của thị trường. Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ thống thị trường cũng biến đổi phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải hiểu rõ về bản chất hệ thống thị trường và những vấn đề xung quanh nó. ***2.2.1.2 Vai trò của thị trường*** \- Thị trường vừa là **điều kiện**, vừa là **môi trường cho sản xuất phát triển**. Thị trường phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa và dịch vụ thì thị trường cũng phát triển và mở rộng theo. Sự mở rộng thị trường đến lượt nó lại thúc đẩy trở lại sản xuất phát triển. Vì vậy, thị trường là **môi trường kinh doanh**, là điều kiện không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. \- Thị trường là đầu ra của sản xuất, là cầu nối của sản xuất và tiêu dùng. Thị trường **đặt ra** các **nhu cầu tiêu dùng**, buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải luôn **nắm bắt được các nhu cầu** đó; việc định hướng mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp cũng phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Không có thị trường thì sản xuất và trao đổi hàng hóa không thể tiến hành được. Vì vậy**, thị trường là lực lượng hướng dẫn, định hướng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh.** \- Thị trường là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế. Thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các phương án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải có sự tính toán, cân nhắc trước khi ra quyết định. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh đó là có hiệu quả và ngược lại. Vì vậy, **thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.** \- Thị trường điều chỉnh sản xuất, gắn sản xuất với tiêu dùng, liên kết nền kinh tế thành một thể thống nhất, gắn các quá trình kinh tế trong nước với các quá trình kinh tế thế giới. Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải bỏ ra các chi phí sản xuất và chi phí lưu thông. Thông qua hệ thống giá cả thị trường, người sản xuất có thể nhận biết được sự phân bố các nguồn lực đã hợp lý chưa. Vì vậy, thị trường là nơi **kiểm nghiệm các chi phí** và **thực hiện yêu cầu quy luật tiết kiệm lao động xã hội**. Thị trường **phá vỡ** ranh giới sản xuất tự nhiên**, tự cấp, tự túc** để tạo thành hệ thống nhất định trong nền kinh tế quốc dân, làm cho nền kinh tế trong nước gắn liền với nền kinh tế thế giới. \- Thị trường là khách quan, các chủ thể kinh tế không có khả năng làm thay đổi thị trường mà ngược lại, phải tiếp cận để thích ứng với thị trường nhằm xác định thế mạnh kinh doanh trên cơ sở đòi hỏi của thị trường. **Tuân theo các quy luật thị trường**, **phát huy khả năng sẵn có là** phương châm hoạt động hiệu quả của người sản xuất trong cơ chế thị trường. ***2.2.1.3 Các chức năng chủ yếu của thị trường*** ***Chức năng thừa nhận*:** Thị trường là nơi thừa nhận công dụng, tính có ích hay giá trị sử dụng của hàng hoá, thừa nhận chi phí lao động để sản xuất ra hàng hoá. Nếu sản phẩm của người sản xuất tiêu thụ được trên thị trường, tức là hàng hóa đã được thị trường thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng. Khi đó, quá trình tái sản xuất mới tiếp tục diễn ra bình thường. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường; phải xác định cho được thị trường cần gì, khối lượng bao nhiêu\... để hàng hóa sản xuất ra có thể tiêu thụ được. ***Chức năng thực hiện*:** Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người mua, người bán thực hiện được các mục đích của mình. Người bán nhận tiền và chuyển quyền sở hữu cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để có được giá trị sử dụng của hàng hoá. Vì vậy, thị trường là nơi **thực hiện các hành vi trao đổi hàng hóa**, **thực hiện giá trị hàng hóa** và **thực hiện cân bằng cung cầu** từng loại hàng hóa thông qua giá cả thị trường. ***Chức năng thông tin*:** Thị trường là nơi phát tín hiệu, thông tin về tình hình cung, cầu trên thị trường, thông tin về sự biến động của nền kinh tế. Căn cứ thông tin trên thị trường, người sản xuất kinh doanh đưa ra được các quyết định, hành vi ứng xử cụ thể của mình nhằm thu được lợi ích lớn nhất. Vì vậy, thị trường là **nơi cung cấp thông tin cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng**. Chức năng này đòi hỏi người sản xuất phải tổ chức tốt hệ thống thông tin của mình, có phương pháp thu thập, xử lý thông tin kịp thời để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch phát triển thị trường phù hợp. ***Chức năng điều tiết và kích thích*:** Do cạnh tranh, người sản xuất phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ để hạ giá thành. Người nào có sản phẩm chất lượng cao, giá cả thấp sẽ được thị trường lựa chọn; ngược lại, người nào đưa ra thị trường sản phẩm kém phẩm chất, giá thành cao sẽ bị đào thải. Thị trường hoạt động như một trọng tài khách quan, dân chủ trong việc chọn lọc các yếu tố tiến bộ, có ích cho xã hội. Với chức năng trên, thị trường thực hiện việc **chọn lọc, đào thải, kích thích hoặc hạn chế sản xuất, tiêu dùng**, đảm bảo cho sản xuất **phù hợp với nhu cầu** xã hội. **2.2.2 Phân loại thị trường** Có nhiều cách khác nhau phân loại thị trường, tuỳ theo mục đích nghiên cứu, hoặc theo các tiêu thức khác nhau. Có thể nêu một số cách phân loại chủ yếu sau: C*ăn cứ vào đối tượng hàng hóa đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường, ta có thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng.* Thị trường tư liệu sản xuất là thị trường mua bán các loại tư liệu sản xuất, các yếu tố sản xuất như máy móc, nguyên nhiên vật liệu, công nghệ, vốn, lao động, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán... Thị trường tư liệu tiêu dùng là thị trường ở đó người ta mua bán hàng tiêu dùng hay dịch vụ cho tiêu dùng như lúa gạo, quần áo, thực phẩm, thủy sản\... Tính đa dạng, phong phú về nhu cầu của người tiêu dùng sẽ quyết định tính phong phú đa dạng của thị trường tư liệu tiêu dùng. *Căn cứ vào vai trò của người mua, người bán trên thị trường, ta có thị trường người bán và thị trường người mua* Thị trường người bán là thị trường mà vai trò quyết định thuộc về người bán. Giá cả bị áp đặt, cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động; nhiều mặt hàng, loại hàng cung ứng ra thị trường không theo yêu cầu của thị trường, vai trò của người mua bị thủ tiêu. Thị trường người bán thường xuất hiện ở những nền kinh tế sản xuất hàng hoá kém phát triển, hoặc ở nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trên thị trường này người mua đóng vai trò thụ động. Thị trường người mua là thị trường mà vai trò quyết định trong quan hệ mua bán thuộc về người mua; người mua là yếu tố quyết định của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của người mua là trung tâm, khách hàng là \"thượng đế\" và luôn quán triệt quan điểm bán cái mà thị trường cần chứ không chỉ bán cái mà mình có. Tức là sản xuất phải nghiên cứu nhu cầu của thị trường , nhu cầu của khách hàng để đáp ứng. Thị trường người mua là môi trường khách quan cho sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường. *Căn cứ vào phạm vi hoạt động, ta chia ra thị trường trong nước (thị trường dân tộc) và thị trường thế giới.* Thị trường dân tộc là nơi diễn ra các hoạt động mua bán của những người trong cùng một quốc gia. Các quan hệ kinh tế diễn ra trong mua bán chỉ ảnh hưởng đến các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội trong phạm vi nước đó. Thị trường thế giới là nơi diễn ra hoạt động mua bán giữa các nước với nhau. Quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế của mỗi nước. *Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành của thị trường, ta có thị trường tự do, thị trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.* *T*hị trường tự do là thị trường hoàn toàn do các quy luật kinh tế trên thị trường quyết định, không có bất cứ sự can thiệp nào của nhà nước. Thị trường có điều tiết là thị trường có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước đối với các quan hệ trao đổi, mua bán... Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán; khi họ tham gia hay rút khỏi thị trường thì không ảnh hưởng đến thị trường. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (cạnh tranh mang tính độc quyền hoặc độc quyền mang tính cạnh tranh) là thị trường có nhiều người bán, người mua cạnh tranh lẫn nhau. Sản phẩm có sự chênh lệch nhất định; các doanh nghiệp có thể rút khỏi thị trường một cách dễ dàng; nếu doanh nghiệp nào có uy tín trên thị trường thì sẽ có lợi. **2.2.3 Các quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường** ***2.2.3.1 Quy luật giá trị*** Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có **sản xuất và trao đổi hàng hoá** thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật **chi phối cơ chế thị trường** và **chi phối các quy luật kinh tế khác**; các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi. Về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, trong sản xuất, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Vì vậy họ phải luôn luôn tìm cách **hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.** Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo **nguyên tắc ngang giá**, **lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không** dựa trên giá trị cá biệt**.** Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả xung quanh giá trị dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Thông qua sự sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau: *Thứ nhất, tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa.* Trong sản xuất, thông qua sự biến động của giá cả, người sản xuất sẽ biết được tình hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa bằng giá trị thì việc sản xuất là phù hợp với yêu cầu xã hội; hàng hoá này nên được tiếp tục sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, sản xuất cần mở rộng để cung ứng hàng hoá đó nhiều hơn vì nó đang khan hiếm trên thị trường; tư liệu sản xuất và sức lao động sẽ được tự phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Nếu giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị, cung về hàng hoá này đang thừa so với nhu cầu xã hội; cần phải thu hẹp sản xuất ngành này để chuyển sang mặt hàng khác. Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung cầu hàng hoá giữa các vùng cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh sức mua của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp mua nhiều)\... *Thứ hai, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.* Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy, phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm\... Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống. Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu bán hàng\... làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng, thuận tiện với chi phí thấp nhất. *Thứ ba, thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất* Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội nên lãi nhiều. Những người này sẽ mở rộng quy mô sản xuất, trở nên giàu có, phát triển thành ông chủ. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu\... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội. Những người này dễ lâm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế... là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng những tiêu cực về kinh tế xã hội khác. Những tác động tiêu cực này có thể hạn chế nếu có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước. ***2.2.3.2 Quy luật cung cầu*** Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự thống nhất giữa chúng thì sẽ có các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng. Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị trường để bán. Cung do sản xuất quyết định song không đồng nhất với sản xuất. Chỉ những sản phẩm hàng hóa được đưa ra thị trường mới tạo thành cung. Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán. Chỉ những nhu cầu có khả năng thanh toán mới tạo thành cầu trong kinh tế. Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau theo hướng cầu xác định cung và ngược lại cung thúc đẩy, kích thích cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá vì những hàng hoá nào tiêu thụ được thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, mẫu mã, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó. Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau. Quy luật cung cầu có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá; làm biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Căn cứ quan hệ cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả; khi giá cả thay đổi, cần đưa ra các chính sách điều tiết giá cho phù hợp nhu cầu thị trường\... Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Ở đâu có thị trường thì ở đó quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Nếu nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi cho quá trình sản xuất. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... để tác động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý. ***2.2.3.3 Quy luật lưu thông tiền tệ*** Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần phải đưa vào lưu thông một khối lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hoá được xác định theo một quy luật gọi là quy luật lưu thông tiền tệ. Vậy quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định. Khi tiền chỉ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định bằng công thức tổng quát: *M* =![](media/image2.png)^*P*.*Q*^*V* Trong đó M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định; P là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng lưu thông của đồng tiền. Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa được đưa ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ. Đây là quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này có ý nghĩa chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội có sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau: Trong đó P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu; G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán; V là số vòng quay trung bình của tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định. Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ. Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế tiền tệ, quyết định cơ chế lưu thông tiền tệ. Bên cạnh đó, cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân hàng...quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu làm giá hàng hoá vận động, xoay quanh giá trị, thoát ly khỏi giá trị thì quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật giữ mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền. ***2.2.3.4 Quy luật canh tranh*** Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế nói lên mối quan hệ cạnh tranh tất yếu giữa những chủ thể trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể trong sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để thu nhiều lợi ích nhất cho mình. Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Thật vậy, mục đích của người sản xuất là thu được lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, mỗi người lại có điều kiện sản xuất khác nhau (khác nhau về trình độ, số lượng vốn, nguồn nguyên liệu, thị trường, thời gian, không gian\...). Để giành giật các điều kiện thuận lợi cho mình, họ phải cạnh tranh. Hơn nữa, những điều kiện sản xuất lại luôn thay đổi, biến động; do đó cạnh tranh lại không ngừng tiếp diễn. Vì vậy, cạnh tranh là một hoạt động chủ yếu, tất yếu của mỗi chủ thể kinh tế trên thị trường nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mình với mục đích tối đa hoá lợi ích, chống lại hoạt động của các đối thủ cạnh tranh. Quan hệ cạnh tranh bao gồm cạnh tranh giữa người bán và người mua, người bán với người bán, người mua với người mua; cạnh tranh trong nội bộ ngành, giữa các ngành; cạnh tranh trong nước và quốc tế; cạnh tranh giữa các tổ chức có liên quan\... Các mối quan hệ cạnh tranh này có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chủ thể cạnh tranh bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng, người mua, người bán, người cung ứng các dịch vụ, cung ứng nguyên vật liệu, các tổ chức, các trung gian\.... Nội dung của cạnh tranh là chiếm các nguồn nguyên liệu, giành cácnguồn lực sản xuất, khoa học kỹ thuật, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, giành nơi đầu tư, giành hợp đồng, đơn đặt hàng\... Cạnh tranh là động lực thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ khoa học và sự phát triển lực lượng sản xuất. Cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, thay đổi phương thức tổ chức quản lý hiệu quả hơn, đổi mới sản phẩm... để đáp ứng nhu cầu thị trường và xã hội tốt hơn. Ở đâu có độc quyền, thiếu cạnh tranh thì ở đó trì trệ bảo thủ, kém hiệu quả vì mất đi cơ chế có tác dụng đào thải lạc hậu, bình tuyển tiến bộ. Mặt trái của cạnh tranh là phân hoá người sản xuất; gây rối, phá hoại thị trường; cạnh tranh bằng các thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm luật pháp để thu lợi cá nhân, gây tổn hại lợi ích tập thể và xã hội. Điều này đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp để hạn chế, ngăn chặn mặt trái của cạnh tranh. **2.2.4 Vai trò của các chủ thể tham gia thị trường.** ***2.2.4.1 Người sản xuất*** Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ\... Họ là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng. Sản xuất giữ vai trò quyết định đối với tiêu dùng bởi sản xuất tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng. Quy mô và cơ cấu sản phẩm do sản xuất tạo ra quyết định quy mô và cơ cấu tiêu dùng; chất lượng và tính chất của sản phẩm quyết định chất lượng và phương thức tiêu dùng. Trong nền kinh tế, người sản xuất là những người mua hoặc thuê các yếu tố đầu vào sản xuất chủ yếu của các hộ gia đình để sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất. Trong nền kinh tế thị trường, tất cả những người sản xuất được gọi chung là các doanh nghiệp. Doanh nghiệp và người tiêu dùng là hai tác nhân chủ yếu trên thị trường; họ tương tác với nhau trên thị trường hình thành nên giá cả thị trường; qua đó hàng hóa được trao đổi thỏa mãn cho cả người tiêu dùng và người sản xuất. Trong nền kinh tế chỉ có doanh nghiệp và người tiêu dùng, các hoạt động kinh tế chịu sự điều tiết bởi giá cả thị trường, mọi hoạt động diễn ra khách quan, không có sự can thiệp của chính phủ gọi là cơ chế thị trường. Khi nhà nước tham gia vào kinh tế, quản lý và điều tiết nền kinh tế thì gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. ***2.2.4.2 Người tiêu dung*** Người tiêu dùng là tất cả các cá nhân, hộ gia đình; họ là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Chi tiêu của người tiêu dùng đại diện cho nhu cầu đối với các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Người tiêu dùng mua với số lượng lớn thì người sản xuất bán được nhiều hàng, có thu nhập lớn và ngược lại. Tiêu dùng tạo ra nhu cầu và là mục đích của sản xuất. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự thành bại của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất. Người tiêu dùng là người quyết định hành vi mua sắm của mình. Mục tiêu của họ là đạt được lợi ích tối đa trong tiêu dùng với nguồn thu nhập có hạn. Khi đưa ra một quyết định mua sắm, người tiêu dùng có quyền được tự do tham khảo, lựa chọn sản phẩm mình muốn mua sao cho phù hợp nhất với nhu cầu, mục đích, theo giá cả mong muốn. Vì vậy, thông qua hành vi mua sắm, người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến giá cả thị trường của hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn tới quyết định việc sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu trong nền kinh tế. Từ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, người sản xuất căn cứ vào đó để đưa ra sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao của người tiêu dùng. Cũng từ nhu cầu của người tiêu dùng, người sản xuất sẽ có kế hoạch và chiến lược phát triển lâu dài phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt lợi ích cao nhất. Trên thị trường, người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Họ là người đặt hàng chủ yếu của các doanh nghiệp, các hãng sản xuất trên thị trường. Với tư cách là người mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, người tiêu dùng có thể đưa ra ý kiến góp ý chính xác về sản phẩm, dịch vụ đang sử dụng. Tùy thuộc vào thị hiếu tiêu dùng và ý kiến thu thập được từ phía người tiêu dùng, người sản xuất có thể điều chỉnh lại phương pháp sản xuất, hoàn thiện sản phẩm của mình cho phù hợp nhu cầu của người tiêu dùng. ***2.2.4.3 Thương nhân và các trung gian thương mại*** Thương nhân là người trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng, lấy việc mua bán hàng hóa là cơ sở để tồn tại và phát triển. Hoạt động của các thương nhân được biểu hiện khái quát qua công thức vận động T -- H -- T. Việc xuất hiện của các thương nhân là một tất yếu kinh tế do sự phát triển của sản xuất hàng hóa và phân công lao động xã hội. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa còn ở quy mô nhỏ bé, người sản xuất thường đảm nhận cả việc bán hàng hóa. Lúc này, hàng hóa đi thẳng từ tay người sản xuất tới người tiêu dùng sau hành vi bán của người sản xuất. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển, chức năng mua bán hàng hóa được tách ra thành một chức năng riêng biệt, làm xuất hiện tầng lớp thương nhân chuyên đảm nhận việc mua bán hàng hóa. Mặc dù chỉ là trung gian giữa người sản xuất với người tiêu dùng, song thương nhân có vai trò rất quan trọng trên các mặt sau: Sự xuất hiện của của các thương nhân giúp những người sản xuất chỉ chuyên tâm vào sản xuất, không phải quan tâm đến khâu tiêu thụ sản phẩm nên rút ngắn được thời gian lưu thông, tăng nhanh vòng quay của vốn. Đồng thời, năng lực sản xuất không bị phân tán; các điều kiện về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý\... được tập trung vào sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất. Thương nhân là những người chuyên hoạt động trong lĩnh vực lưu thông nên có điều kiện để nghiên cứu thị trường, nhu cầu khách hàng, tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng, các yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm, dịch vụ đưa ra thị trường, đặc biệt các thông tin liên qua đến cạnh tranh giữa những người sản xuất\... Từ đó, cung cấp thông tin cho người sản xuất, giúp họ mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất kịp thời theo yêu cầu thị trường. Thương nhân hoạt động trên lĩnh vực lưu thông nên họ cũng nắm vững tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương và các đối tác. Do đó, họ có khả năng đẩy mạnh giao lưu buôn bán, hạn chế rủi ro, thúc đẩy hàng hóa được phân phối nhanh chóng và hiệu quả hơn. Thương nhân chuyên trách hoạt động trong lưu thông nên có điều kiện để tiết kiệm các chi phí phải bỏ ra trong lưu thông. Một thương nhân có thể phục vụ việc bán hàng của nhiều nhà sản xuất khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau nên các chi phí về quảng cáo, vận chuyển, xây dựng cửa hàng, sổ sách bán hàng, thuê nhân viên\... sẽ nhỏ hơn so với chi phí mà mỗi người sản xuất trực tiếp đảm nhận chức năng này. Nhờ hoạt động của các trung gian thương mại, người sản xuất có thể thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đa dạng. Trên cơ sở đó, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Các trung gian thương mại cũng tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn cho người tiêu dùng trong tiếp cận với các sản phẩm của người sản xuất thông qua hệ thống phân phối có mặt ở mọi nơi. Tóm lại, thương nhân và các trung gian thương mại tuy không trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hóa và giá trị, song hoạt động của họ làm cho khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường tăng lên; giao lưu giữa các vùng, các khu vực và giữa các nước được đẩy mạnh; từ đó góp phần thúc đẩy sản xuất và kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các trung gian thương mại cũng làm cho sản xuất và tiêu dùng tách rời nhau, không có sự liên hệ trực tiếp với nhau trên thị trường. Điều này tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối giữa sản xuất với tiêu dùng, có thể dẫn tới khủng hoảng sản xuất thừa. ***2.2.4.4 Nhà nước*** Trên thị trường, nhà nước vừa là người tiêu dùng lớn; đồng thời vừa là nhà sản xuất và cung cấp chủ yếu các hàng hóa, dịch vụ công cộng cho cá nhân và xã hội như dịch vụ quốc phòng, y tế, giáo dục, giao thông vận tải, thông tin liên lạc... Mục tiêu hoạt động của nhà nước là lợi ích chung của toàn xã hội, của cả nền kinh tế; song nhà nước không chỉ nhằm vào lợi ích kinh tế đơn thuần mà còn vì nhiều lợi ích khác như chính trị, quốc phòng, an ninh, giáo dục\... Nhà nước là tác nhân quan trọng, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Trong đó, vai trò lớn nhất của nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ, chính sách của mình và thực hiện các chức năng cơ bản sau: *Chức năng hiệu quả*: nhà nước sử dụng công cụ luật pháp nhằm đảm bảo cho cơ chế thị trường vận hành tốt nhất, đ

Use Quizgecko on...
Browser
Browser