Đề cương Triết học Mác-Lênin PDF
Document Details
USTH
Tags
Related
- Giao Trình Triết Học Mác - Lênin (PDF, Đại Học Không Chuyên, 2021)
- Giáo trình Triết học Mác-Lenin (Đại học không chuyên) PDF 2021
- Giáo trình Triết học Mác-Lenin (Đại học Không Chuyên) 2021 PDF
- Giáo trình Triết học Mác-Lênin (PDF)
- Giáo trình Triết học Mác - Lênin (PDF)
- Giáo trình Triết học Mác - Lênin (PDF)
Summary
Đề cương môn Triết học Mác-Lênin thuộc Đại học Phương Đông (USTH), bao gồm các phần về chủ nghĩa duy vật biện chứng và vai trò của triết học trong đời sống xã hội. Nó giải thích khái niệm và đối tượng của triết học Mác-Lênin, phân tích các chức năng như thế giới quan và phương pháp luận.
Full Transcript
Đề cương môn Triết học Mác-Lênin - USTH PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Khái niệm và đối tượng của triết học Mác - Lênin 1.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin - Sự xuất hiện...
Đề cương môn Triết học Mác-Lênin - USTH PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Khái niệm và đối tượng của triết học Mác - Lênin 1.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin - Sự xuất hiện triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại, là kết quả c ủa s ự th ống nh ất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - th ế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới. - Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã hội. Trong triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch s ử tri ết học - chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong l ịch s ử triết học - phép biên chứng duy vật. - Triết học Mác - Lênin ra đời là kết quả của sự kế thừa và phát triển những thành tựu của tư duy triết học nhân loại. Đồng thời, là k ết quả của sự khái quát hoá những thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của lực lượng 2 vật chất - xã hội năng động và cách mạng nhất tiêu biểu cho thời đại ngày nay là giai cấp công nhân để nhận thức và cải tạo xã hội. - Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin đang đứng ở đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại, là hình thức phát triển cao nhất c ủa các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự phát triển thế giới, đã và đang phát triển giữa dòng văn minh nhân loại. 1.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin Triết học Mác - Lênin giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. - Đối tượng của triết học Mác - Lênin thể hiện sự thống nhất giữa biện chứng khách quan với biện chứng chủ quan. Do giải quyết vấn đề cơ bản của triết học triệt để trên lập trường duy vật biện chứng, triết học Mác - Lênin chỉ ra được các quy luật vận động, phát triển chung nh ất c ủa thế giới. Cả thế giới khách quan và nhận thức, tư duy của con người đều tuân theo những quy luật biện chứng. Các quy luật biện ch ứng c ủa th ế giới, về nội dung là khách quan nhưng về hình thức phản ánh là chủ quan. Biện chứng chủ quan là sự phản ánh của biện chứng khách quan. - Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ ra những quy luật chung nhất của cả tự nhiên và cả lịch sử xã hội. Các quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng là những quy luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển của thế giới. Các quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là quy luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội; đó là quy luật biện chứng của lịch sử. - Đối tượng của triết học Mác - Lênin chứa đựng trong đó vấn đề con người. Triết học Mác - Lênin xuất phát từ con người, từ thực tiễn, chỉ ra những quy luật của sự vận động, phát triển của xã hội và của t ư duy con người. Mục đích của Triết học Mác- Lênin là nâng cao hiệu quả của quá trình nhận thức và thực tiễn nhằm phục vụ lợi ích con người. 3 - Triết học Mác - Lênin chứa đựng sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học. Trong triết học Mác- Lênin, những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy đã thể hiện sự đồng nhất giữa biện chứng của thế giới với biện chứng của quá trình nhận thức và biện chứng của quá trình tư duy. Tuy nhiên đây là sự đồng nhất trong khác biệt. - Trong triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp. Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng hoà quyện với nhau tạo nên một lý luận thống nhất - lý luận biện chứng duy vật. Trong lịch sử triết học chỉ có triết học Mác - Lênin mới có đ ược sự thống nhất hữu cơ này. - Triết học Mác - Lênin với các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, không những không loại trừ nhau mà còn bổ sung cho nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất định. - Kết cấu của triết học Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng chung nhất về thế giới. Chủ nghĩa duy vật lịch s ử v ừa là s ự vận dụng, vừa là sự mở rộng quan điểm duy vật biện ch ứng vào nh ận thức lịch sử xã hội. Sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm cho triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng thực sự sâu sắc, hoàn bị và triệt để. 2. Chức năng của triết học Mác - Lênin 2.1. Chức năng thế giới quan - Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và v ề v ị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới 4 quan. Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng , là hạt nhân thế giới quan cộng sản. - Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, hệ thống quan điểm duy vật mácxít là nhân tố định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét chính mình. - Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình. - Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là một tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định. - Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn. Trong đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan của con người phát triển như một quá trình tự giác. - Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động. 2.2. Chức năng phương pháp luận - Phương pháp luận là hệ thống về những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận th ức và thực tiễn. - Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp 5 luận duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc, những quy tắc, những yêu cầu, những chỉ thị của hoạt động nhận thức và thực tiễn. - Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật. 2.3. Các chức năng khác của triết học Mác - Lênin - Ngoài hai chức năng cơ bản là thế giới quan và phương pháp luận, triết học Mác - Lênin còn có các chức năng khác như: chức năng nhận thức; giáo dục; chức năng dự báo khoa học; chức năng đánh giá - phê phán... - Tri ết h ọc Mác - Lênin th ực hi ện chức năng nh ận th ức.Việc trang b ị m ột h ệ th ống tri th ức tri ết h ọc s ẽ giúp cho con ng ười có kh ả năng bao quát d ưới hình th ức lý lu ận chung nh ất kho tàng tri th ức nhân loại. - Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng giáo dục con người, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Trên cơ sở thế giới quan khoa học, con người sẽ có một nhân sinh quan tích cực. - Các quy luật của triết học là quy luật chung nhất, ph ổ bi ến nh ất của tự nhiên, xã hội và tư duy, được khái quát dựa trên cơ sở những kiến thức của khoa học cụ thể. Do vậy, quy luật của triết học mang trong mình chức năng dự báo khoa học, chỉ đạo, định hướng cho các khoa học cụ thể tiếp tục đi sâu khám phá bản chất thế giới. 3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết về lý luận và thực tiễn hiện nay 3.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của đời sống xã hội - Trong thời đại ngày này, vai trò của triết học Mác - Lênin không giảm đi mà trái lại ngày càng được nâng cao. Điều đó, trước hết do nh ững đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại quy định. 6 * Triết học Mác - Lênin là c ơ s ở th ế gi ới quan và ph ương pháp luận khoa h ọc và cách m ạng đ ể phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang phát triển mạnh mẽ. - Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự cải biến về chất các lực lượng sản xuất trên cơ sở biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đặc điểm nổi bật của nó là sự tăng lên mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền sản xuất vật chất và các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo thời cơ và thách thức cho các quốc gia, dân tộc trên con đường phát triển. * Trong thời đại ngày nay, xu th ế toàn c ầu hoá xã h ội đang không ngừng tăng lên. Bản ch ất c ủa toàn c ầu hoá là quá trình tăng lên m ạnh mẽ các mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác đ ộng, ph ụ thu ộc l ẫn nhau gi ữa các khu vực, các qu ốc gia, dân t ộc trên toàn th ế gi ới. - Toàn cầu hoá là một qúa trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các qu ốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các th ế l ực tư bản chủ nghĩa đang lợi dụng toàn cầu hoá để âm m ưu th ực hi ện toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa. - Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và tri ết h ọc Mác - Lênin nói riêng là lý luận khoa h ọc và cách m ạng soi đ ường cho giai c ấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới. - Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của triết học Mác - Lênin ngày càng tăng. Điều đó đòi h ỏi ph ải bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin để phát huy tác d ụng và s ức s ống của nó đối với thời đại và đất nước. 7 Chuyên đề VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT 1. Phạm trù vật chất 1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất - Các nhà triết học duy tâm, cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan, từ thời cổ đại, trung đại đến thời hiện đại tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng. - Nếu chủ nghĩa duy tâm phủ nhận đặc tính khách quan của vật chất, dựa vào lực lượng tinh thần để giải thích thế giới, thì chủ nghĩa duy vật thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới v ật ch ất, l ấy b ản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy vật trước C. Mác sớm đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này. - Khuynh hướng chung trong phương pháp và quan niệm của các nhà triết học duy vật cổ đại là tìm ra và đồng nhất vật chất với một vật thể cụ thể đặc biệt, hay một nguyên thể nào đó. Vật thể này vừa là bản nguyên đầu tiên sinh ra mọi sự vật, hiện tượng khác; vừa là thực thể duy nhất mà mọi sự vật, hiện tượng sẽ hoá thành khi phân huỷ, diệt vong. - Bước tiến mới trên con đường xây dựng quan niệm duy vật về vật chất được thể hiện trong quan niệm của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximan. Ông cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ tr ụ là m ột dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn đó là Apeirôn. - Theo thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với những vật thể mà con người có thể cảm nhận 8 được một cách trực tiếp, mà là một lớp các phần tử hữu hình rộng rãi n ằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng. Quan niệm này không những thể hiện một bước tiến khá xa của các nhà triết học duy vật trong quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung. 1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình v ề vật chất - Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối l ượng của điện tử không phải là bất biến, mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử. Năm 1898 – 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và rađium. Những phát hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hoá. Năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quát của A Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. - Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng: nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”, do đó vật chất cũng có thể biến mất. - Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi r ơi vào chủ nghĩa duy tâm. V. I. Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm v ật lý h ọc” và coi đó là “một bước ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ng ắn ng ủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng thành”, là “một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác”. Để khắc ph ục cu ộc kh ủng ho ảng 9 này; V. I. Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý h ọc, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến thắng t ất c ả m ọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật bi ện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”3. 1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về phạm trù vật chất - C. Mác và Ph. Ăngghen trong khi đ ấu tranh ch ống ch ủ nghĩa duy tâm, thuy ết b ất kh ả tri và phê phán ch ủ nghĩa duy v ật siêu hình, máy móc đã đ ưa ra nh ững t ư t ưởng h ết s ức thiên tài v ề v ật ch ất. Theo Ph. Ăngghen, đ ể có m ột quan ni ệm đúng đ ắn v ề v ật ch ất, c ần ph ải có s ự phân biệt rõ ràng gi ữa v ật ch ất v ới tính cách là m ột ph ạm trù c ủa tri ết học, một sáng t ạo c ủa t ư duy con ng ười trong quá trình ph ản ánh hi ện thực, tức vật ch ất v ới tính cách là v ật ch ất, v ới b ản thân các s ự v ật, hiện tượng cụ th ể c ủa th ế gi ới v ật ch ất. - Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V. I. Lênin đã ti ến hành t ổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn ho ặc xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển xuất sắc quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy vật. - Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Thông thường, để định nghĩa một khái niệm nào đó, người ta thực hiện theo cách quy khái niệm cần định nghĩa vào khái ni ệm rộng hơn nó rồi chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của nó. Nhưng, theo V. I. Lênin, vật chất thuộc loại khái niệm rộng nhất, rộng đến cùng cực, cho nên không thể có một khái niệm nào rộng hơn nữa. Do đó, không thể đ ịnh nghĩa khái niệm vật chất theo phương pháp thông thường mà phải dùng một phương pháp đặc biệt - định nghĩa nó thông qua khái niệm đối lập với 3 Sđd, tr.379. 10 nó trên phương diện nhận thức luận cơ bản, nghĩa là phải định nghĩa vật chất thông qua ý thức. V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem l ại cho con người trong cảm, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1. Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây: - Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan, ở bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức. + Khi nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói ph ạm trù này là sản phẩm của sự trừu tượng hoá, không có sự tồn tại c ảm tính. Nhưng khác về nguyên tắc với mọi sự trừu tượng hoá mang tính ch ất duy tâm chủ nghĩa về phạm trù này, V. I. Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái “Đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đ ặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”2. + Mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết đến những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện tượng vô cùng “kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con ng ười, nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất, đều là các dạng cụ thể của vật chất. - Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác. + Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất duy tâm về sự tồn tại của vật chất, V. I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn bi ểu hi ện đ ặc tính hiện thực khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể. 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 151. 2 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 321. 11 + Chủ nghĩa duy vật triết học không bàn đến vật chất một cách chung chung, mà bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức c ủa con ng ười. Trong đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất, là cội nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập trường nhất nguyên duy vật của V. I. Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học. - Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức của con người có thể phản ánh được. + Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. + Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức…), lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các s ự v ật, hi ện tượng đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan. + Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại. Quan niệm của triết học Mác - Lênin v ề v ật ch ất nói chung và định nghĩa vật ch ất c ủa V. I. Lênin nói riêng, không nh ững đã gi ải quy ết hai mặt vấn đề cơ bản của tri ết h ọc trên l ập tr ường c ủa ch ủ nghĩa duy vật biện chứng. 2. Các hình thức tồn tại của vật chất 2.1. Vận động - Sự tồn tại của thế giới vật chất hết sức phong phú và phức tạp. Vì thế, với tư cách là một khái niệm triết học khái quát hình thức t ồn t ại c ủa 12 mọi sự vật, hiện tượng vật chất, vận động không được hiểu như một hình thức vận động cụ thể nào đó mà phải được hiểu theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. - Tr ướ c h ế t, v ận đ ộng là thu ộc tính c ố h ữu c ủa v ật ch ất. Không ở đâu và ở n ơi nào l ại có th ể có v ật ch ất không v ận đ ộng. Các d ạ ng t ồ n t ạ i c ụ th ể c ủa v ật ch ất không th ể không có thu ộc tính v ận đ ộ ng. Th ế gi ới v ật ch ất, t ừ nh ững thiên th ể kh ổng l ồ đ ến nh ững h ạt c ơ b ả n vô cùng nh ỏ, t ừ gi ới vô c ơ đ ến gi ới h ữu c ơ, t ừ hi ện t ượng t ự nhiên đ ế n hi ện t ượng xã h ội, t ất c ả đ ều ở tr ạng thái không ng ừng v ậ n đ ộ ng, bi ế n đ ổi. - Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận. Do đó, con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động. Nhận thức sự vận động của một sự vật, hiện tượng chính là nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó. - Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho r ằng có v ận đ ộng mà không có vật chất, tức là có lực lượng phi v ật ch ất v ận đ ộng bên ngoài th ế gi ới vật chất. Một số nhà duy tâm còn vi ện d ẫn c ả nh ững thành t ựu c ủa khoa học hiện đại để minh ch ứng cho quan đi ểm c ủa ch ủ nghĩa duy năng v ốn ra đời từ thế kỷ XIX. Họ giải thích m ối quan h ệ ph ụ thu ộc l ẫn nhau giữa khối lượng và năng lượng thành s ự bi ến đ ổi c ủa kh ối l ượng thành năng lượng phi vật ch ất. - Vận động là một thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất, do đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm về tính không thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các nhà khoa học tự nhiên chứng minh bằng quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất 13 - Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Việc khám phá và phân chia các hình thức vận động của vật chất diễn ra cùng với sự phát triển nhận thức của con người. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã chia vận động của v ật ch ất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội. - Việc phân chia các hình thức vận động cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa học, đồng thời cũng cho phép vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương quan giữa các hình thức vận động của vật chất. - Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuy ển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động. Vận động và đứng im. - Theo quan đi ểm c ủa ch ủ nghĩa duy v ật bi ện ch ứng, đ ứng im là khái niệm tri ết h ọc ph ản ánh tr ạng thái ổn đ ịnh v ề ch ất c ủa s ự v ật, hiện tượng trong nh ững m ối quan h ệ và đi ều ki ện c ụ th ể, là hình th ức biểu hiện sự t ồn t ại th ực s ự c ủa các s ự v ật, hi ện t ượng và là đi ều ki ện cho sự vận đ ộng chuy ển hoá c ủa v ật ch ất. - Như vậy, đứng im ch ỉ có tính t ạm th ời, ch ỉ x ảy ra trong m ột mối quan hệ nh ất đ ịnh ch ứ không ph ải trong m ọi m ối quan h ệ cùng một thời đi ểm, ch ỉ x ảy ra v ới m ột hình th ức v ận đ ộng nào đó, ở m ột lúc nào đó, ch ứ không ph ải cùng m ột lúc đ ối v ới m ọi hình th ức v ận động. Hơn nữa, đứng im ch ỉ là s ự bi ểu hi ện c ủa m ột tr ạng thái v ận động – vận đ ộng trong thăng b ằng, trong s ự ổn đ ịnh t ương đ ối. - Quan điểm vận động đòi hỏi phải xem xét, đánh giá s ự v ật, hi ện tượng trong quá trình vận động, đồng thời khi tiến hành cải tạo sự vật, hiện tượng phải thông qua những hình thức vận động vốn có, đặc trưng của chúng. 14 2.2. Không gian và thời gian - Không gian và thời gian là những hình thức tồn t ại c ủa v ật ch ất vận động, được con người khái quát khi nhận thức thế giới. Không có không gian và thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”1. - Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn t ại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không tách r ời nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà l ại không có m ột quá trình diễn biến của nó. Cũng không th ể có s ự v ật, hi ện t ượng nào có thời gian tồn tại mà l ại không có qu ảng tính, k ết c ấu nh ất đ ịnh. - Sự phát triển của triết học và khoa học đã bác bỏ quan niệm sai lầm của Niutơn về một không gian, thời gian thuần tuý, đồng nhất. - Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất. Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng trong thế giới không ở đâu có tận cùng về không gian, cũng như không ở đâu có ngưng đọng, không biến đổi hoặc không có sự tiếp nối của các quá trình. Không gian và thời gian của một sự vật, hiện tượng c ụ th ể là có t ận cùng và hữu hạn. - Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm đó đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử, cụ thể trong việc xác định không gian và thời gian của s ự v ật, hi ện tượng. * Ý nghĩa phương pháp luận rút ra của định nghĩa vật chất của Lênin. 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 209. 15 Ý THỨC, MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 1. Phạm trù ý thức 1.1. Nguồn gốc của ý thức Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm - Khi lý gi ải ngu ồn g ốc ra đ ời c ủa ý th ức, các nhà tri ết h ọc duy tâm cho r ằng, ý th ức là nguyên th ể đ ầu tiên, t ồn t ại vĩnh vi ễn, là nguyên nhân sinh thành, chi ph ối s ự t ồn t ại, bi ến đ ổi c ủa toàn b ộ th ế giới v ật ch ất. + Ch ủ nghĩa duy tâm khách quan với nh ững đ ại bi ểu nh ư Platôn, G. Hêghen đã tuy ệt đ ối hoá vai trò c ủa lý tính, kh ẳng đ ịnh th ế gi ới "ý niệm", hay "ý ni ệm tuy ệt đ ối" là b ản th ể, sinh ra toàn b ộ th ế gi ới hi ện thực. Ý th ức c ủa con ng ười ch ỉ là s ự "h ồi t ưởng" c ủa "ý ni ệm", hay "tự ý th ức" l ại "ý ni ệm tuy ệt đ ối". + Còn chủ nghĩa duy tâm ch ủ quan với nh ững đ ại bi ểu nh ư G.Bécc ơli, E.Makh ơ l ại tuy ệt đ ối hoá vai trò c ủa c ảm giác, coi c ảm giác là t ồn t ại duy nh ất, tiên thiên, s ản sinh ra th ế gi ới v ật ch ất. Ý 16 thức c ủa con ng ười là do c ảm giác sinh ra, nh ưng c ảm giác theo h ọ quan ni ệm không ph ải là s ự ph ản ánh th ế gi ới khách quan, mà chỉ là cái v ốn có c ủa m ỗi cá nhân t ồn t ại tách bi ệt v ới th ế gi ới bên ngoài. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình. - Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc của ý thức. Tuy nhiên, do trình độ phát triển khoa học của thời đại mà họ đang sống còn nhiều hạn chế và bị phương pháp siêu hình chi phối nên những quan niệm về ý thức còn nhiều sai lầm. Các nhà duy vật siêu hình đã đồng nhất ý thức với vật chất. - Triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm, duy vật siêu hình trong quan niệm về ý thức, các giai cấp thống trị lấy đó làm cơ sở lý luận, công cụ để nô dịch tinh thần quần chúng lao động. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng - Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học - thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. - Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hoá lâu dài d ẫn đ ến s ự xuất hiện con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới vật chất từ thấp đến cao, và cao nhất là trình độ phản ánh - ý thức. Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất v ới nhau. - Lịch sử tiến hoá của thế giới vật chất đồng thời là lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất. Giới tự nhiên vô sinh có k ết c ấu vật chất đơn giản, do vậy trình độ phản ánh đặc trưng của chúng là phản ánh vật lý, hoá học. Đó là trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có 17 sự định hướng, lựa chọn. Giới tự nhiên hữu sinh ra đời với kết cấu v ật chất phức tạp hơn, do đó thuộc tính phản ánh cũng phát triển lên một trình độ mới khác về chất so với giới tự nhiên vô sinh. Đó là trình đ ộ phản ánh sinh học trong các cơ thể sống có tính định hướng, lựa chọn, giúp cho các cơ thể sống thích nghi với môi trường để tồn tại. - Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện và không có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Ý thức là hình thức phản ánh đặc tr ưng ch ỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. - Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, ý thức không những có nguồn gốc tự nhiên mà còn là và chủ yếu là một hiện tượng mang bản chất xã hội. Để tồn tại con người phải tạo ra những vật phẩm để thoả mãn nhu cầu của mình. + Ph. Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời ý thức của con người: "Trước hết là lao động; sau lao động và đ ồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích ch ủ y ếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần bi ến chuy ển thành bộ óc con người"1. - Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát triển của tri thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng dần được hình thành, phát triển giúp nhận thức lý tính của loài người ngày càng sâu sắc. Nhận thức lý tính phát triển làm cho ý thức ngày càng trở nên năng động, sáng tạo hơn. - Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện trở thành "vỏ vật chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp c ủa ý thức; là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản ph ẩm xã h ội - 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 646. 18 lịch sử. Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn t ại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái quát, trừu tượng hoá, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đ ổi t ư tưởng với nhau, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội tích luỹ được qua các thế hệ, các thời kỳ lịch sử. - Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng không phải cứ có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người. 1.2. Bản chất của ý thức - Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững lý thuyết phản ánh đã lu ận gi ải một cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý th ức là hai hi ện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ không tách rời. - Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan1, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hi ện th ực khách quan của óc người. - Như vậy, khi xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Đối với con người, c ả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. 1 V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 138. 19 - Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức mà nó ph ản ánh là ch ủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đ ầu óc c ủa con người và được cải biến đi ở trong đó. - Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt ch ẽ v ới th ực ti ễn xã hội. Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt. - Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. Ý thức không phải là cái không thể nhận thức được như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, nhưng nó cũng không phải cái tầm th ường nh ư ng ười duy vật tầm thường gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, ch ỉ có con người mới có ý thức. 1.3. Kết cấu của ý thức Các lớp cấu trúc của ý thức. - Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...; - Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. - Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn t ại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Sự hoà quyện giữa tri thức với tình 20 cảm tạo nên tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người vươn lên trong mọi hoàn cảnh. - Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua m ọi tr ở ng ại đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố c ấu thành ý th ức và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế giới. Các cấp độ của ý thức. - Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức. - Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà ch ủ th ể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành k ỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. - Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông qua phản xạ không điều kiện. 2. Mối quan hệ vật chất và ý thức 2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình - Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. - Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quy ết đ ịnh ý 21 thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ khách quan chủ nghĩa, thụ động, ỷ lại, trông chờ. 2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng - Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau v ề b ản ch ất, nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng, mặc dù vai trò không ngang bằng nhau. Về mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc t ư t ưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn ch ế: trong tr ường h ợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối"1. - Các thành tựu của khoa h ọc t ự nhiên hi ện đ ại đã ch ứng minh được rằng, giới tự nhiên có tr ước con ng ười; v ật ch ất là cái có tr ước, còn ý thức là cái có sau; vật ch ất là tính th ứ nh ất, còn ý th ức là tính th ứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý th ức và là ngu ồn g ốc sinh ra ý thức. - "Ý thức không bao giờ có th ể là cái gì khác h ơn là s ự t ồn t ại đ ược ý thức"2. Ý thức chỉ là hình ảnh của th ế gi ới khách quan. S ự phát tri ển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chi ều sâu là đ ộng l ực m ạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và đ ộ sâu s ắc c ủa n ội dung c ủa t ư duy, ý thức con người qua các th ế h ệ, qua các th ời đ ại t ừ mông mu ội t ới văn minh, hiện đại. - Nhưng sau khi ra đời, ý th ức không t ồn t ại th ụ đ ộng mà có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật ch ất, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, chỉ đ ạo ho ạt đ ộng c ải t ạo th ế gi ới trong hiện thực theo nhu c ầu c ủa con ng ười thông qua th ực ti ễn. 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 173. 2 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 37. 22 - Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua ho ạt đ ộng của con người. Con người dựa trên nh ững tri th ức v ề th ế gi ới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, t ừ đó đ ề ra m ục tiêu, ph ương hướng, biện pháp và ý chí quy ết tâm cao đ ể th ực hi ện th ắng l ợi m ục tiêu đã xác định. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng - Nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, bản chất về ý thức, mối quan hệ vật chất - ý thức là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và biết v ận d ụng linh hoạt lý luận khoa học đó vào trong hoạt động thực ti ễn, gi ải quy ết đúng đắn mối quan hệ khách quan - chủ quan đem lại hi ệu qu ả trong hoát đ ộng thực tiễn. - Khẳng định tính độc lập và vai trò to lớn của ý thức tinh thần, về thực chất là để khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức đó. Do đó về thực chất, sự tồn tại của đời sống xã hội là có tính chất thực tiễn. - Khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế. - Để thực hiện tốt nguyên tắc khách quan, chúng ta cần nắm vững một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận khoa học: phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan; đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan trong nhận thức và cải tạo thế giới. Nhận thức đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến khách quan theo mục đích đặt ra. 23 - Đó là thực chất của nguyên tắc khách quan của triết học mácxít. Mặt khác cần khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí, cũng như thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ trong các hoạt động của con người. 24 QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI 1. Chất và lượng của sự vật, hiện tượng - Quan niệm biện chứng về chất và lượng đạt được bước phát triển mới trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học G. Hêghen. Với quan điểm biện chứng, G.Hêghen cho rằng chất phát triển từ “chất thuần tuý” đến “chất được xác định” và đỉnh cao của sự phát triển ấy thì ra đời lượng. Lượng cũng không ngừng tiến hoá, “số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá của lượng. - G. Hêghen cũng xem xét tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất trong một khoảng nhất định. Đây là sự luận giải có tính khoa học về phạm trù “độ”. Trong diễn tiến của quá trình này, G. Hêghen đặc biệt chú ý đến phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng này của G. Hêghen, mà V.I.Lênin đã rút ra một kết luận quan trọng rằng, việc có thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay quan điểm siêu hình v ề s ự phát triển. - Sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đo ạn phát triển quan trọng trong quan niệm về chất, lượng và quy luật về mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất nói chung. Theo đó, chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính thành tính quy định khách quan vốn có của s ự v ật, hiện tượng, làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. - Trước hết, chất của sự vật, hiện tượng được tạo nên bởi các thuộc tính của nó, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó. Nhưng 25 thuộc tính của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua mối quan hệ của sự vật đó với sự vật, hiện tượng khác. - Như vậy, để nhận thức chất của sự vật với tư cách là tổng hợp của các thuộc tính vốn có của nó, cần nhận thức sự vật trong tổng hợp các mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác. Chất của sự vật không phải là một thuộc tính, cũng không phải là sự cộng lại giản đơn các thuộc tính, mà là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. - Chất của sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Bởi vì, các sự vật khác nhau có những đặc trưng, thuộc tính, những tính quy định khác nhau. - Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn chỉ rõ chất của sự vât không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn b ởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. - Như vậy, sự khác nhau về chất ấy được quyết định bởi phương thức liên kết khác nhau của các phân tử các bon. Cho nên, ch ất c ủa s ự v ật không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố cấu thành mà nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. - Cùng với tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có tính quy định về lượng của nó. Lượng là phạm trù triết học để chỉ số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, các đại lượng biểu thị tính quy định vốn có của sự vật, để phân biệt sự vật này với sự vật khác về quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật đó. - Lượng của sự vật tồn tại khách quan gắn với chất của s ự v ật, b ất kỳ một sự vật nào cùng với những tính quy định về chất bao giờ cũng có những tính quy định về lượng. Ví dụ: hai chiếc bàn giống nhau về ch ất liệu, hình dáng nhưng lại khác nhau về kích thước, v. v.. - Triết học Mác - Lênin chỉ rõ, lượng của sự vật vừa biểu hi ện tính cụ thể, vừa biểu hiện tính trừu tượng. Thật vậy, nhận thức về lượng c ủa sự vật có thể thông qua đong, đo, đếm được bằng các dụng cụ đo lường. 26 - Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối tuỳ quan hệ xem xét. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là biểu hiện chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. 2. Nội dung cơ bản của quy luật - Trong quá trình vận động phát triển của sự vật, cả lượng và chất của nó đều biến đổi. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi bản chất của sự vật. Cả lý luận và thực tế đều cho thấy, lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định nào đó mà chất của nó về căn bản vẫn không thay đổi. Đó chính là giới hạn mà lượng và chất của sự vật là thống nhất với nhau, sự vật vẫn là nó chứ chưa trở thành cái khác. - Tất nhiên, sự thay đổi về lượng chỉ cần vượt qua một giới hạn xác định nào đó (đôi khi rất nhỏ) cũng có thể làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ (hay giới hạn xác định) mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, được gọi là “độ”. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. - Nhưng sự thống nhất giữa lượng và chất là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một sự vật. Với tư cách là cái đặc trưng cho quy mô, tính chất, nhịp điệu của sự vật nên lượng thường xuyên biến đổi hơn chất. Sự biến đổi về lượng diễn ra từ từ, nhỏ nhặt, chậm chạp theo đường tiệm tiến trong sự phát triển. Trong thực tế sự biến đổi về lượng diễn ra thường khó thấy và là quá trình bi ến đổi để tích tụ dần các thuộc tính mới, mở rộng dần quy mô, tăng dần nhịp điệu vận động theo hướng hình thành sự vật mới trong giới hạn “độ” c ủa sự vật cũ. - Trong hoạt động thực tiễn và trong nghiên cứu khoa học, cái khó không phải là nhận thức được chất của sự vật mà ở chỗ tìm ra được quy 27 luật phát triển về lượng, tìm ra cái điểm nút của sự phát triển về lượng trong quá trình biến đổi về chất. Mặc dù, không phải bất kỳ s ự thay đ ổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất, nhưng bất kỳ sự biến đ ổi nào về lượng cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật, đến các thuộc tính của nó. - Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với những điểm nút mới. Sự liên kết giữa các điểm nút sẽ cho ta một đường nút trong quá trình vận động, phát triển vô cùng tận của các sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Xét về bản chất, bước nhảy chính là sự đứt đoạn của tính tiệm tiến về lượng, là sự tích hợp giữa tính liên tục và tính gián đoạn trong sự phát triển. - Sau khi ra đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. V. I. Lênin đã khẳng định: “sự chuyển hoá lượng thành chất và ngược lại” 1. Sở dĩ như vậy là vì, nói đến chất mới, là nói đến những thuộc tính mới, những quan hệ mới của sự vật, hiện tượng. -Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua gi ới h ạn c ủa độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy tại điểm nút; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng 3. Các hình thức của bước nhảy 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 240. 28 - Xét về mặt thời gian của sự thay đổi về chất của sự vật và dựa trên tính chất, nhịp điệu của sự thay đổi có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là sự biến đổi diễn ra một cách nhanh chóng, trong một thời gian ngắn làm thay đổi căn bản chất của sự vật. - Xét về quy mô của sự biến đổi về chất của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất trên tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu t ố c ấu thành s ự v ật. Bước nhảy toàn bộ làm thay đổi cả một thời kỳ lịch sử, cả một giai đoạn phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng. - Trong xã hội xem xét sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất còn có thể tiếp cận sự thay đổi mang tính chất cách mạng và sự thay đổi mang tính chất tiến hoá. Cách mạng là sự thay đổi của xã hội mà trong quá trình đó diễn ra sự cải tạo căn bản về chất. Tiến hoá là sự thay đổi v ề l ượng cùng với những biến đổi nhất định về chất trong xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng của quy luật - Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết kiên trì tích luỹ về lượng, biết chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho sự biến đổi về chất. Bởi vì, sự vận động, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu và diễn ra từ sự tích luỹ, biến đổi dần dần về lượng, đến một giới hạn nhất định thực hiện bước nhảy về chất. - Trong hoạt động thực tiễn khi thời cơ xuất hiện, tức là sự biến đổi về lượng đã đến điểm nút, phải nhanh chóng nắm bắt và ch ớp th ời c ơ đ ể thực hiện bước nhảy về chất. Phải chống bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh, ngại đổi mới v. v.. coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng. - Trong lĩnh vực xã hội phải thấy được mối quan hệ giữa quá trình tiến hoá và cách mạng. Sự phát triển của xã hội phải đi t ừ ti ến hoá đ ến cách mạng và cách mạng là kết quả của sự tiến hoá. Đây là c ơ s ở ph ương pháp luận cho việc đề ra đường lối chiến lược và sách lược cách m ạng của Đảng ta. 29 - Vì chất của sự vật còn phụ thuộc vào phương thức liên kết gi ữa các yếu tố tạo thành sự vật, do đó, trong hoạt động thực tiễn phải biết nghiên cứu hoàn chỉnh và tác động vào phương thức liên kết gi ữa các y ếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó để tao nên sự biến đổi về chất theo hướng phục vụ lợi ích của chủ thể. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP 1. Mặt đối lập và mâu thuẫn - Mặt đối lập và mâu thuẫn là hai phạm trù có quan hệ chặt chẽ với nhau những không phải là một. Để có được một quan niệm thực sự khoa học về hai phạm trù này cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng là c ả một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự phát triển quan niệm của con người về nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. - Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện ch ứng v ề những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó trong học huyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là ở triết học của I. Cantơ và G.Hêghen. - Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, G.Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất. - Bằng việc kết thừa những thành quả tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn và bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn lên một tầm cao mới. Theo đó, mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ các mặt đối lập có mối 30 quan hệ biện chứng với nhau, cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn trong phép biện chứng, trước hết được cấu thành bởi các mặt đối lập. 2. Nội dung cơ bản của quy luật -Trước hết, hai mặt đối lập tuy có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Nói cách khác, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời nhau của hai mặt đó. - Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với nhau. Đó là một biểu hiện khác về sự thống nhất của các mặt đối lập. Do có sự “đồng nhất” này mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có th ể chuy ển hoá sang m ặt đối lập kia (khi xét về một vài đặc trưng nào đó). - Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Tồn tại trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng lại có khuynh hướng vận động trái ngược nhau, do đó, đến một lúc nào đó trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, tương quan giữa các mặt đối lập là cân bằng và chúng có vai trò, tác dụng ngang nhau đối với sự vật. - Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gi ữa chúng. Như vậy, trong một mâu thuẫn, “đấu tranh” giữa các mặt đối lập là mặt đối lập với sự “thống nhất” của chúng. Sự thống nhất duy trì tính nương tựa vào nhau, đồng nhất và tác dụng ngang nhau, còn đấu tranh lại phá vỡ hiện trạng ấy bằng việc làm gia tăng sự khác nhau và đối lập giữa các mặt của mâu thuẫn. 31 - Với tính cách là hai trạng thái đối lập nhau trong biện chứng của mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất duy trì sự đứng im, sự ổn định tạm thời của mâu thuẫn, do đó, nó là cơ sở, tiền đề cho đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự đấu tranh trực tiếp quy định sự vận động, sự phát triển không ngừng của mâu thuẫn, do đó, nó vừa là thực chất, vừa là nội lực quy định sự thay thế lẫn nhau của các trình độ thống nhất. - Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn xét về thực chất, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Nhưng không phải sự thống nhất thuần tuý mà là sự thống nhất gắn bó hữu cơ với đấu tranh; cũng không phải là sự đấu tranh chung chung mà là sự đấu tranh gắn bó hữu cơ với sự thống nhất mới là nguyên nhân chân chính, cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của mọi mâu thuẫn nói chung, do đó, cũng là nguyên nhân chân chính cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của từng sự vật, hiện tượng nói riêng. - Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định những tính chất ấy của sự vật. Khi coi “thống nhất” như là một trường hợp đặc biệt của “đấu tranh” thì hoàn toàn có thể định nghĩa: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”1. - Từ những điều trình bày trên đây, có thể nêu thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt đối lập cấu thành những mâu thu ẫn n ội tại; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, đ ộng lực của mọi sự vận động và phát triển. 3. Phân loại mâu thuẫn - Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lạp đối với một sự vật, người ta phân loại các mâu thuẫn thành những mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. 1 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 379 32 - Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. - Mâu thuẫn bên trong có vai trò quy ết đ ịnh tr ực ti ếp đ ối v ới quá trình vận đ ộng và phát tri ển c ủa s ự v ật. Tuy nhiên, mâu thu ẫn bên trong và mâu thu ẫn bên ngoài l ại v ận đ ộng trong s ự tác đ ộng l ẫn nhau. Mỗi bước giải quyết mâu thu ẫn này l ại t ạo đi ều ki ện đ ể gi ải quy ết mâu thu ẫn kia. - Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. + Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. + Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận dộng và phát triển của một mặt nào đó của sự vật - Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. + Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, giải quyết nó s ẽ t ạo đi ều ki ện đ ể giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thư yếu). + Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt ch ẽ v ới nhau, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mau thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định; việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản. 33 - Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội, người ta chia các mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín muôpì của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn m ột cách thực tế. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng - Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải nh ận th ức đúng mâu thuẫn của sự vật, tìm ra những mặt, những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. - Phải nhận thức rõ vai trò c ủa t ừng mâu thu ẫn và m ối quan h ệ giữa các mâu thu ẫn, đi ều ki ện chuy ển hoá gi ữa chúng. Trên c ơ s ở đó tìm ra phương thức, phương ti ện, l ực l ượng đ ể gi ải quy ết mâu thu ẫn. - Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn và mối quan hệ lẫn nhau c ủa mâu thu ẫn; hi ểu đúng mâu thuẫn của sự vật, xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH 1. Phủ định và phủ định biện chứng 34 - Trong lịch sử triết học đã có nhiều cách lý giải khác nhau về sự phủ định và về nguyên nhân của sự thay thế lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Các nhà triết học duy tâm thường luận giải nguyên nhân của s ự phủ định từ ý thức, tinh thần hoặc từ một lực lượng siêu tự nhiên ở bên ngoài sự vật, hiện tượng. - Các nhà triết học siêu hình cũng đã bàn đến quan niệm về sự phủ định và sự thay thế lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất, song họ lại quan niệm đó là một sự phủ định sạch trơn, không có kế thừa, lọc bỏ. Họ phủ nhận tính khách quan của quá trình phủ định, họ hiểu nguyên nhân của sự phủ định là từ bên ngoài, làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của sự vật; không thừa nhận sự phát triển là do những nguyên nhân bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng. - Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự vận động, phát triển của thế giới vật chất luôn diễn ra sự thay thế lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng; cái cũ mất đi, cái mới ra đời là do quá trình tích luỹ liên tục về lượng, đến một giới hạn nhất định tạo nên những biến đổi v ề chất, do sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng. - Phủ định biện chứng là phạm trù triết học chỉ quá trình t ự ph ủ định, tự phát triển do nguyên nhân bên trong mỗi sự vật, hiện tượng, cái cũ mất đi, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tiến bộ và tích cực trong lòng cái cũ, tạo ra điều kiện, tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. - Trước hết, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của sự phủ định biện chứng. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời là do quá trình chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, quá trình chuyển hoá đó lại xuất phát từ nguyên nhân bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng, là do s ự đấu tranh giữa các mặt đối lập, làm cho các mặt đối lập tự bài trừ, phủ định lẫn nhau để giải quyết các mâu thuẫn vốn có tồn tại c ủa m ỗi s ự v ật, hiện tượng. 35 - Do đó, phủ định biện chứng mang tính khách quan, không l ệ thu ộc vào ý thức của con người, hoặc lệ thuộc vào bất cứ một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào. - Trong tự nhiên phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các giống loài sinh vật là điều kiện tiền đề cho quá trình tiến hoá từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của bản thân các giống loài sinh vật đó. Trong xã hội phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, các phương thức sản xuất vật chất và s ản xu ất ra đ ời sống tinh thần của xã hội. Trong tư duy phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các tư tưởng, của nhận thức, lý luận. - Phủ định biện chứng được thực hiện bằng con đường tự thân phủ định, tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có bên trong sự vật, hiện tượng, cho nên cái mới ra đời không thủ tiêu hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để phát triển (ra đời cái mới), quá trình phủ định biện chứng không đoạn tuyệt hoàn toàn với cái cũ mà nó giữ lại những nội dung tích cực, tiến bộ của cái bị phủ định, làm cho cái mới phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa, đây là một tiêu chí căn bản để phân biệt phủ định biện chứng và phủ định siêu hình. - Tính kế thừa là một đặc trưng cơ bản, là nhân tố duy trì mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa cái phủ định và cái khẳng định, gi ữa các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật, hiện tượng, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Nội dung kế thừa trong phủ định biện chứng là giữ lại, bảo tồn, duy trì những yếu tố tích cực, tiến bộ và hợp quy luật và khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng, giữ lại, duy trì những yếu tố tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển tiếp theo. - Chủ nghĩa xã h ội ra đ ời là k ết qu ả c ủa s ự k ế th ừa nh ững thành tựu phát triển rực rỡ trong ch ủ nghĩa t ư b ản: l ực l ượng s ản xu ất, c ơ s ở vật chất kỹ thuật, khoa h ọc và văn hoá, v.v.. T ất nhiên, nh ững y ếu t ố đó phải được cải biến trên cơ sở c ủa m ột cái m ới, cho phù h ợp v ới s ự phát triển của xã hội mới. Trong lĩnh v ực nh ận th ức, các h ọc thuy ết khoa h ọc 36 ra đời sau bao giờ cũng ph ải k ế th ừa nh ững giá tr ị t ư t ưởng c ủa các h ọc thuyết khoa học ra đ ời tr ước, v.v.. 2. Nội dung cơ bản của quy luật Chủ nghĩa duy vật biện chứng không những khẳng định phủ định biện chứng là một vòng khâu, một giai đoạn của sự phát triển mà còn khẳng định cơ chế nội tại, theo đó các lần phủ định biện chứng gắn kết với nhau để đem đến sự phát triển chính là tính chất chu kỳ của chúng. - Cái mới ra đời thay thế cái cũ bao giờ cũng diễn ra theo chu kỳ từ khẳng định đến phủ định và từ phủ định đến phủ định của phủ định. Tính chu kỳ của sự phát triển, con đường phát triển thông qua phủ định của phủ định đã được một số nhà triết học trước C. Mác với phương pháp tư duy biện chứng thừa nhận luận giải, đặc biệt là G. Hêghen, ng ười đ ầu tiên trình bày tương đối đầy đủ nội dung cơ bản của quy luật phủ định c ủa phủ định, qua đó ông đã có những phỏng đoán thiên tài về sự vận động, phát triển của thế giới thông qua những chu kỳ của sự phát triển. - Trên lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, cách mạng, C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã loại bỏ được những yếu tố duy tâm, thần bí và hư vô, đồng thời giữ lại, kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng G. Hêghen trong đó có tư tưởng về phủ định của phủ định. C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã luận giải quy luật phủ định của phủ định trong giới tự nhiên, trong xã hội và lĩnh v ực t ư duy của con, qua đó đã khẳng định tính khách quan và phổ biến của quy luật này, "Một quy luật phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà nó có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn"1. - Như vậy, tính chu kỳ, tính lặp lại diễn ra trong các sự vật, hiện tượng là biểu hiện và đặc trưng quan trọng nhất của s ự phát tri ển thông qua những lần phủ định biện chứng. Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều, ít khác nhau tuỳ theo từng sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể, nhưng về thực chất, trong một chu kỳ phủ định của phủ định phải trải 1 C. Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG. Hà Nội 1994, tập 20, tr. 202. 37 qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau: phủ định lần một và phủ định lần hai. - Phủ định lần một là quá trình phủ định biện chứng nhằm chuy ển hoá cái xuất phát ban đầu (cái khẳng định) sang cái đối lập với nó (cái phủ định) để tạo ra bước trung gian trong sự phát triển của sự vật. Cái mới ra đời thông qua cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, loại bỏ được những mặt tiêu cực và kế thừa những yếu tố tích cực, cơ bản của cái cũ để tạo ra cái đối lập với sự vật ban đầu cả nội dung và hình thức. - Phủ định lần hai nhằm chuyển hoá khâu trung gian (cái phủ định) sang cái đối lập với nó, sự vật mới ra đời dường như lặp lại cái ban đ ầu (cái khẳng định), nhưng trên cơ sở cao hơn. Phủ định lần hai là sự tổng hợp các nhân tố tích cực đã được phát triển vững chắc trong cái phủ định và được bổ sung nhiều nhân tố mới. Do vậy, kết quả của phủ định lần hai đã nói rõ được sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định lần hai được gọi là phủ định của phủ định. - Về nguyên tắc, một chu kỳ của sự phát triển (phủ định của phủ định) phải trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản, khác nhau về chất. Sau mỗi lần phủ định cơ bản đó, sự vật, hiện tượng phải chuyển hoá sang cái đối lập với cái xuất phát ban đầu, từ cái khẳng định sang cái phủ định, hoặc từ cái phủ định trở lại cái khẳng định nhưng trên cơ sở cao hơn. - Sau lần phủ định cơ bản thứ hai sự vật dường nh ư l ặp l ại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Đây là đặc điểm quan trọng của phủ định của phủ định. Tuy nhiên, sự lặp lại ở đây không phải lặp lại máy móc, nguyên xi cái ban đầu, mà trên cơ sở cao hơn. Sự phát tri ển hình nh ư di ễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới hình thức khác, ở một trình độ cao hơn. - Do tính chất chu kỳ phủ định của phủ định, do tính lặp lại m ột s ố mặt, một số yếu tố ban đầu trên cơ sở mới cao hơn, nên sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất không diễn ra theo đường thẳng, mà có những bước quanh co, phức tạp theo đ ường “xoáy 38 ốc”. Hình thức xoáy ốc là biểu thị khuynh hướng và con đường tiến lên trong quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng. - Hình th ức “xoáy ốc” là s ự bi ểu th ị rõ ràng, đ ầy đ ủ các đ ặc trưng cơ bản của quá trình phát tri ển thông qua ph ủ đ ịnh c ủa ph ủ đ ịnh: tính chu kỳ, tính k ế th ừa, tính l ặp l ại nh ưng không quay tr ở l ại và tính chất tiến lên c ủa s ự phát tri ển. M ỗi vòng m ới c ủa đ ường “xoáy ốc” thể hiện một trình đ ộ cao h ơn c ủa s ự phát tri ển, đ ồng th ời d ường nh ư quay trở l ại cái đã qua, d ường nh ư l ặp l ại vòng tr ước, nh ưng không bao giờ trùng khít lên nhau. M ỗi vòng “xoáy ốc” th ể hi ện m ối liên h ệ ràng buộc không tách r ời nhau trong quá trình v ận đ ộng, phát tri ển c ủa s ự vật. - Khuynh hướng chung của sự phát triển là vận động tiến lên, nhưng những yếu tố riêng lẻ của sự vận động đó có thể không tiến lên, mà thụt lùi, thoái bộ. Nói cách khác, phát triển là khuynh hướng chung của toàn bộ thế giới vật chất, nhưng từng sự vật, hiện tượng cụ thể thì có sự phát sinh, phát triển và diệt vong. - Phủ định của phủ định không chỉ diễn tả tính chất chu kỳ, tính phức tạp, tính lặp lại, mà còn khẳng định phát triển là một quá trình tất yếu dẫn đến sự ra đời của cái mới. Phát triển dù có quanh co phức tạp nhưng cuối cùng cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ. Bởi vì, cái mới là cái tiến bộ, tích cực, đại diện cho xu hướng đi lên, là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, biểu hiện khuynh hướng phát triển tất yếu và là kết quả của quá trình phát triển hợp quy luật của các sự vật, hiện tượng. Do vậy, cái mới thay thế cái cũ là tất yếu trong xu thế phát triển của sự vật, đóng vai trò là động lực của sự phát triển. - Nghiên cứu sự xuất hiện của cái mới cũng cần phân biệt cái mới đích thực với cái mới giả hiệu, cái giả mới. Cái giả mới, cái mới giả hiệu, thực chất là cái cũ, cái lỗi thời được nguỵ trang, đội lốt và được tái tạo lại dưới hình thức mới. 39 - Từ những sự phân tích trên có thể khái quát nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau: Phát triển là quá trình cái mới phủ định cái cũ; cái mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế thừa những hạt nhân hợp lý trong lòng cái cũ theo chu kỳ phủ định của phủ định để khẳng định sự tiến lên; con đường tiến lên trong quá trình phát triển, do đó, không theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”; cái mới là cái tất thắng. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng - Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu đúng xu hướng của sự phát triển, do đó xem xét sự vật phải phân tích bản chất của nó để vạch ra chiều hướng phát triển cơ bản, đồng thời dự kiến được những bước quanh co trong sự phát triển, đặc biệt là sự vận động, phát triển của xã hội loài người. - Trong hoạt động thực tiễn cần chú ý đến tất cả các bước phủ đ ịnh cơ bản và các khâu trung gian, quá độ của sự vật, hiện tượng. - Trong khi phủ định cái cũ, cần biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý, những tinh hoa của cái cũ; chống thái độ phủ định sạch trơn, không thấy mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. - Nhận thức đúng đắn con đường của sự phát triển thông qua nh ững chu kỳ phủ định của phủ định là cơ sở để xây dựng thế giới quan duy v ật và phương pháp luận khoa học trong xem xét các vấn đề thời đại, xây dựng lòng tin vào tương lai, vào sự tất thắng của cái mới v ới tinh th ần l ạc quan cách mạng, xây dựng ý chí quyết tâm, tính vững vàng, kiên định trước những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. LÝ LUẬN NHẬN THỨC 1. Nhận thức 1.1. Quan niệm ngoài mácxít về nhận thức 40 - Chủ nghĩa duy vật trước Mác với các đại biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Ph. Bêcơn, T. Hôpxơ, đặc biệt là L. Phoiơbắc đã đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy tâm, cố gắng lý giải bản chất nhận thức trên lập trường duy vật. Họ thừa nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới và coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Song, do hạn chế bởi điều kiện xã hội và trình độ nhận thức nên những quan điểm triết học của họ còn thiếu cơ sở khoa học, còn mang tính siêu hình, trực quan, máy móc trong giải quyết các vấn đề về nhận thức, chưa phản ánh đúng bản chất và mối quan hệ giữa các giai đoạn nhận thức. Đặc biệt, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là không đề cập được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên giải thích một cách siêu hình mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức. - Trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức nên đã phủ định khả năng nhận thức thế giới của con người, hoặc nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là sự áp đặt, chi phối từ những lực lượng “siêu nhiên” và kết quả nhận thức không phải sự phản ánh hiện thực khách quan. - Các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới, song luôn coi nhận thức không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan, mà chỉ là “tự nhận thức” của ý niệm, còn tư tưởng là sự tồn tại ở đâu đó ngoài con người. Các nhà duy tâm chủ quan hoàn toàn thủ tiêu khách thể khi đề cập đến nhận thức luận. Họ cho rằng, tấ