Những Cảm Xúc Bị Dồn Nén - Isador Henry Coriat PDF
Document Details
Uploaded by InviolableVenus2308
YoungJi International Education
2019
Isador Henry Coriat
Tags
Summary
This book explores the concept of repressed emotions, delving into their hidden influences on individuals. It examines how these emotions can manifest as mental health issues and outlines potential approaches towards understanding and managing them. The text advocates for confronting inner conflicts for personal growth and well-being.
Full Transcript
Isador Henry Coriat NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN Bản dịch của Trần Khánh Ly - Một dịch giả của PSY- ------------------------- NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG Địa chỉ: Số 175 Giảng Võ - Hà Nội...
Isador Henry Coriat NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN Bản dịch của Trần Khánh Ly - Một dịch giả của PSY- ------------------------- NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG Địa chỉ: Số 175 Giảng Võ - Hà Nội Điện thoại: 024 3851 5380; Fax: 024 3851 5381 Email: [email protected] Website: www.nxblaodong.com.vn Chi nhánh phía Nam Số 85 Cách mạng Tháng Tám, Quận 1, Tp Hồ Chí Minh ĐT: 028 3839 0970; Fax: 028 3925 7205 Đơn vị độc quyền xuất bản và phát hành Thông tin liên hệ: E-mail: [email protected] Fanpage: facebook.com/ibooks.sachtamli.kinang.vn Chịu trách nhiệm xuất bản MAI THỊ THANH HẰNG Biên tập: Nguyễn Thế Lợi Sửa bản in: Thiên Ý Vẽ bìa: Bạch Kim Trình bày: Bạch Kim Liên kết xuất bản Công ty CP Sách Bách Việt Trụ sở chính: Địa chỉ: số 9, ngõ 55/9 Huỳnh Thúc Kháng, P. Láng Hạ, Q. Đống Đa, TP. Hà Nội Tel: (024) 3776 5580 - Fax: (024) 3776 5579 Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh: Địa chỉ: 233 Nguyễn Thượng Hiền, P. 6, Q. Bình Thạnh, Tp. HCM Tell/Fax: (028) 3517 1788 Website: http://www.bachvietbooks.com.vn http://www.facebook.com/bachvietbooks.com.vn In 3.000 cuốn, khổ 13.5 x 20 cm tại Công ty CP In và Truyền thông Hợp Phát Địa chỉ: Khu công nghiệp Thạch Thất, Quốc Oai, Hà Nội Số xác nhận ĐKXB: 1556-2019/CXBIPH/09-80/LĐ Quyết định xuất bản số: 875/QĐ-NXBLĐ cấp ngày 25 tháng 6 năm 2019 ISBN: 978-604-9831-77-5 In xong và nộp lưu chiểu năm 2019. ĐÂY LÀ CHÌA KHÓA GIÚP CON NGƯỜI TỰ THẤU HIỂU NHỮNG NỖI ẤM ỨC VÔ HÌNH BÓP NGHẸT TRÁI TIM MỖI NGÀY Đi vào thẳm sâu những bí mật ngóc ngách của linh hồn Chưa bao giờ một bản đồ nội tâm sinh động và nhói lòng đến thế M ột người chỉ trở nên mạnh mẽ và sáng suốt khi đã thực sự nhận biết và thấu hiểu tất cả những cái Xấu, cái Ác trong mình, những nỗi đau khổ và bất hạnh của mình, chấp nhận chúng và lôi chúng ra ánh sáng, chứ không phải tự ru mình bằng những lời hô hào suông, hay bằng việc tìm đến trú ngụ trong những trò tiêu khiển, giải trí. Mọi sự trốn mình trong một nơi chốn nào đó đều không có tác dụng. Mọi sự vỗ về đều bất khả trước cái Xấu, cái Ác của con người. Bằng ý chí dám đối diện với bóng tối trong mình, con người dần trở nên hùng mạnh hơn. Người ta chỉ có thể đẩy lùi bóng tối tâm cảm bằng ánh sáng của Trí huệ, của Lí trí sáng suốt và hướng đến điều cao thượng. Chúng tôi sẽ cùng bạn đi con đường gian nan này! Chào mừng bạn đến với tủ sách Tâm lí kinh điển của iBooks! Lời ngỏ HÀNH TRÌNH TẠO LẬP MỘT LÍ TRÍ MẠNH MẼ VÀ SÁNG SUỐT T rong quá trình tinh thần con người chịu đau khổ1, ý thức2 xảy ra một cơ chế phòng vệ bằng cách dồn nén cảm xúc. Cảm xúc bị dồn nén như một bức tường, một tấm khiên bảo vệ tinh thần con người khỏi nỗi khổ đau. Rủi thay, nếu nó thất bại, sẽ gây nên chứng rối loạn thần kinh nghiêm trọng. Các cảm xúc nguyên sơ của con người được chuyển vào trong vô thức. Ý thức – với những gì nó nhận biết được, tưởng đó là tất cả con người mình – có một sự đàn áp mạnh mẽ với các cảm xúc nguyên sơ đó. 1 Ở đây chỉ nói đến khía cạnh tinh thần, song cũng gợi nhắc ta nghĩ đến những nỗi đau thể xác. Liệu có hay không sự liên đới giữa thể xác với tinh thần, và những nỗi đau thể xác thực ra có tầm quan trọng thế nào trong quá trình hình thành nên nỗi đau tinh thần, có hay không, rất ít hoặc rất nhiều? 2 Thứ mà rất có thể ta dùng để định nghĩa chính ta, gọi tên cái Tôi của chính mình. Như vậy là ngay từ đầu, giữa ý thức và vô thức đã có một cuộc tranh đấu liên miên, một sự khống chế liên miên mà kẻ thắng đương nhiên là ý thức. Nhưng vô thức hùng mạnh đến nỗi, nó gây nên những bất ổn từ nhỏ đến lớn ở con người, mà dù con người có ý thức được hay không, nó vẫn cứ diễn ra và điều khiển hành vi của con người. Đó là cuộc trả thù đầy ngoạn mục của vô thức, của những cảm xúc đau khổ và chống đối, với ý thức. Chừng nào ý thức còn đè nén cảm xúc, đẩy cảm xúc vào lãnh địa của vô thức, chừng đó con người còn tiếp tục bị thôi đẩy bởi những luồng lực vô hình không thể lí giải nổi. Dĩ nhiên không thể nói vô thức bao chứa toàn bộ các phẩm chất hèn hạ và hung ác hơn của con người, với tính không lí trí, hung dữ, độc ác, thiếu khả năng kiểm soát. Vẫn có những sự thăng hoa của vô thức thể hiện trong (các biểu hiện của) chủ nghĩa anh hùng siêu phàm trong chiến tranh hoặc các cuộc cách mạng. Nhưng so với những hành động thuộc về thứ chủ nghĩa lí tưởng đó, cái ác và sự hung hiểm, hèn hạ trong vô thức con người lại là thứ thường trực tồn tại và mạnh mẽ hơn hẳn nơi con người thế gian. Đối diện với thế giới tâm lí học, chúng ta phải gạt bỏ tất cả những ý niệm về cái Xấu, cái Ác nơi con người qua việc nghĩ rằng họ đã bị một thế lực siêu nhiên điều khiển, bị quỷ ám hoặc là một con người dị thường. Chúng ta phải đối diện thẳng thắn với tất cả những cái Xấu và Ác đó nơi con người, bằng việc bóc trần các cảm xúc bị dồn nén vào vô thức ngay từ thời thơ ấu của họ. Nền văn minh hiện đại phải gánh chịu một lời nguyền khủng khiếp (do nó tự gây ra): Đối diện với những cảm xúc bị dồn nén quá mức, chừng nào con người còn ban hành các bộ luật hành vi - ứng xử và các chuẩn mực xã hội, chừng đó con người còn sống liên miên trong những mâu thuẫn tinh thần, giữa lí trí và cảm xúc, ý thức và vô thức. Và cái Ác càng trở nên hùng mạnh hơn. Những người lớn dường như chưa bao giờ có thể chế ngự thành công cái Ác bị dồn nén này để chuyển hóa nó thành hoạt động xã hội hữu ích hơn. Họ giữ lại khoái cảm thơ ấu của mình bằng cách tìm kiếm thích thú từ việc đau khổ gây ra cho người khác. Bi kịch cho tất thảy loài người trên thế gian này là, những kẻ thực hiện và gieo rắc cái Ác lên người khác đều không ý thức được cái Ác bị dồn nén trong họ. Vô thức tìm kiếm những phương tiện để có thể thỏa mãn cái Ác bị dồn nén này. Như vậy, cả người bị hại lẫn kẻ gây hại trong trường hợp này đều chỉ là nạn nhân của một ‘‘kẻ’’ khác vô hình mà bạo ngược hơn: Những cảm xúc đau khổ bị nén lại trong con người. Sự thật sau cùng là tổn thương. Quả là vậy! Các cảm xúc bị dồn nén tìm kiếm sự thỏa mãn trong phương tiện xả thoát có tính nguyên thủy: chứng rối loạn thần kinh chức năng, chẳng hạn như rối loạn lo âu, sợ hãi, trầm cảm, suy nghĩ cưỡng ép, v.v. Người nào nén các cảm xúc của họ, trở thành nạn nhân của sự hướng nội thu mình và đóng cửa tính cách của mình bằng cách xây lên một bức tường phản kháng xung quanh nhân cách đó sẽ không thể tìm thấy lối thoát thích đáng khỏi các mâu thuẫn quá sức chịu đựng. Họ là những bệnh nhân rối loạn thần kinh chức năng bất hạnh. Thể xác và tinh thần con người có khuynh hướng vượt qua các khiếm khuyết của nó bằng cách bù trừ. Nếu một quả thận bị lấy mất, quả thận còn lại sẽ to ra và thực hiện chức năng của cả hai. Nếu một cá nhân bao chứa trong mình cảm giác tự ti, tinh thần theo đó được bù trù theo nhiều cách khác nhau: họ trở nên tự cao tự đại, khoe khoang khoác lác, ghen tị, xem thường mọi người và mọi thứ ngoại trừ bản thân mình, phát triển những suy nghĩ lớn lao và tuyệt đối. Con người phải chăng thật quá đáng thương? Nhà phân tâm học - nhà trị liệu khi tiếp cận vấn đề dồn nén này, cần phải có một tâm trí trong sạch như bàn tay của nhà giải phẫu trước khi phẫu thuật. Thái độ của ông là giúp đỡ bệnh nhân chứ không phải đưa ra bất kì bình phẩm, phán xét nào về bệnh nhân như một nhà đạo đức học. Không chỉ vậy, nhà trị liệu phân tâm còn hướng đến việc thấu hiểu các khiếm khuyết tính cách nhất định trong con người, giúp họ ý thức về những dồn nén của mình thay vì đóng tâm trí trước chúng, tận dụng sự hiểu biết có được để phát triển tính cách của anh ta. Một cuộc điều trị phân tâm là một cuộc chữa lành, một hành động định hướng. Phân tâm học thực sự có thể thay đổi bản chất và những động lực thôi đẩy con người, làm cho thể vô thức của cá nhân những điều mà giáo dục làm cho con người xã hội. Một cuộc phân tâm trọn vẹn là một lần cải biến trọn vẹn con người. Bởi vậy, một người chỉ trở nên mạnh mẽ và sáng suốt khi đã thực sự nhận biết và thấu hiểu tất cả những cảm xúc dồn nén của mình, những nỗi đau khổ và bất hạnh của mình, chấp nhận chúng và lôi chúng ra ánh sáng, chứ không phải tự ru mình bằng những lời hô hào suông về một thứ sức mạnh ý chí, tinh thần nào, hay bằng việc tìm đến trú ngụ trong những tổ chức tôn giáo cực đoan. Mọi sự trốn mình trong một nơi chốn nào đó đều không có tác dụng. Mọi sự vỗ về đều bất khả trước cái Xấu, cái Ác của con người. Chính trong sự giúp đỡ của một nhà trị liệu chân thật, sau đó bằng ý chí dám đối diện với bóng tối trong mình, con người dần trở nên hùng mạnh hơn. Người ta chỉ có thể đẩy lùi bóng tối tâm cảm bằng ánh sáng của Trí tuệ, của Lí trí sáng suốt và hướng đến điều cao thượng hơn. Chính trong hành trình đó, con người cảm nhiễm được sức mạnh lớn lao của Thần và tìm đến Chúa Trời bằng niềm tin thuần lành nhất. Đó là một hành trình vô cùng gian nan suốt cuộc đời, may mắn là, càng trẻ bạn càng có cơ hội để thanh tẩy bóng đêm trong mình hơn. Bạn có dám nhìn thẳng, đối diện với bóng tối đó, hay để nó chế ngự và dẫn lối bạn đến hố sâu nơi địa ngục tâm hồn? Chính bạn, chứ không phải ai khác, được quyền lựa chọn con người mình trở thành. iBooks & Nhóm dịch GIỚI THIỆU T âm lí học, ở cả khía cạnh học thuật lẫn thực tiễn, giờ đây đang ở một ngã rẽ. Tương lai sẽ quyết định xem liệu nó vẫn vô ích như vậy hay sẽ trở nên có ích cho thực tiễn hơn. Nếu Harvey3, khám phá ra sự tuần hoàn của máu và đặt bước khởi tạo cho nền y học hiện đại, thì Freud cũng đã tạo ra con đường mới để tiến gần đến việc thấu hiểu tâm trí con người thông qua phân tâm học. 3 William Harvey (1578 - 1657) là một bác sĩ người Anh nổi tiếng, đã có công phát hiện ra quá trình lưu thông máu trong cơ thể người. Với khám phá về tuần hoàn máu, giới khoa học đã coi William Harvey là cha đẻ của nền y học hiện đại. Thuật ngữ “bất thường” (abnormal) trong phân tâm học ám chỉ sự phóng đại các đặc điểm (tính cách hay suy nghĩ) nhất định khi chúng biểu lộ ra trong cuộc sống hàng ngày. Chẳng hạn, việc quên mất các từ quen thuộc và những dồn nén trong các ca loạn thần kinh chức năng là có cùng cơ chế với nhau. Khái niệm “vô thức” trong phân tâm học thật độc đáo. Nó giải thích rằng, mọi dữ kiện thực tế của ý thức không thể thu thập chỉ bằng việc xem xét nội tâm trong phòng thí nghiệm. Cái gọi là liên tưởng tự do mà tâm lí học thực nghiệm nhấn mạnh, thực ra chẳng tự do chút nào. Nhất định nó phải được thúc đẩy bởi các trải nghiệm có trước (tiền lệ) hoặc bởi các cơ chế vô thức. Đây chính là thuyết tiền định tâm linh (cho rằng không gì xảy ra ở trong đầu là ngẫu nhiên hay tùy hứng cá nhân). Thuyết này không chỉ giải thích khía cạnh tâm lí trong cuộc sống hàng ngày, mà còn giải thích giấc mơ và các biểu hiện rối loạn thần kinh chức năng. Tất cả những triệu chứng rối loạn thần kinh chức năng, khiếm khuyết trí nhớ, nói lỡ lời, v.v không phải khuynh hướng tình cờ mà đều có ý nghĩa và mục đích tâm lí rõ ràng. Nhưng ý nghĩa và mục đích này chỉ có thể được hé mở thông qua các phương thức kĩ thuật của phân tâm học. Đầu óc con người luôn cảnh giác bảo vệ chính nó thông qua hành động nén các kí ức đau buồn và âu lo vào trong vô thức. Nhưng đôi khi việc này vượt quá khả năng của nó và dẫn đến các chứng rối loạn thần kinh. Phân tâm học là phương pháp thăm dò các sắp đặt tâm lí vô thức này. Toàn bộ phương pháp phân tâm dẫn ta đến thế giới của vô thức – một thế giới kì lạ, man rợ, nguyên sơ. Đây là chỗ chứa những cảm xúc bị dồn nén, một dạng Titan nguyên chất. Từ tầng ý thức, chúng được nhìn nhận như một thể ngoại lai và biểu hiện bằng các cơn âu lo, sợ hãi, phiền muộn và suy nghĩ cưỡng ép. Nhiệm vụ của phân tâm học là tra ra nguồn cơn của những dồn nén bị giấu đi này. Phân tâm học cho thấy rằng, những động cơ thẳm sâu thôi đẩy con người không thể được giải thích dựa trên các phản ứng bề mặt bình thường. Chúng ta phải lần mò vào sâu hơn dưới lớp bề mặt đó: Những dồn nén và phản kháng mà một cá nhân không hề hay biết lại chính là một lực vô danh, vô hình điều hướng suy nghĩ của anh ta. Những hành động có lí trí của ý thức có thể khác nhau, song rút cùng các sắp đặt cảm xúc, vô thức của mọi loại đầu óc đều giống nhau. Isador Henry Coriat Boston, tháng Ba năm 1920 Chương I Ý NGHĨA CỦA NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN P hương pháp phân tâm học giống như một cuộc khai quật khảo cổ học, nó đào lên các phức cảm bị chôn vùi, và rồi sau đó chúng tự phân hủy. Giá trị của nó nằm ở việc kéo các động lực, thôi thúc và xung năng bị dồn nén vào ý thức – được nhận biết; ở việc đối mặt và thấu hiểu những ngăn trở gây nên rối loạn thần kinh chức năng. DỒN NÉN CẢM XÚC – MỘT CƠ CHẾ PHÒNG VỆ CỦA Ý THỨC Dồn nén cảm xúc là một cơ chế phòng vệ của ý thức chống lại những đau khổ tinh thần. Cơ chế này như một tấm khiên bảo vệ tinh thần. Rủi thay, nếu nó thất bại, có thể dẫn đến các rối loạn thần kinh nghiêm trọng. Trong quá trình dồn nén, có một mâu thuẫn liên miên giữa các cảm xúc nguyên sơ tồn tại trong vô thức với những xung năng thôi thúc tiến hóa cao hơn trong ý thức của con người. Cơ chế dồn nén là gốc rễ toàn bộ tư tưởng của Freud về đầu óc con người. Nếu không hiểu rõ về thuyết dồn nén thì khó có thể hiểu Phân tâm học. Cơ chế dồn nén đi theo cá nhân ở mọi giai đoạn phát triển tinh thần, từ tinh thần ban sơ của đứa trẻ, đến các kiểu mẫu được thống nhất rất phức tạp của đầu óc người lớn. Trong quá trình phát triển của cá nhân, những thành phần quyền lực nhất định của đời sống tinh thần – chẳng hạn như xung năng ái dục4 – có thể phải trải qua sự dồn nén này. Trước khi thành một yếu tố xã hội, dồn nén trước hết là một hiện tượng cá nhân có tầm quan trọng lớn. 4 Sex motive (sex drive/sexual motivation): Là xung năng hay lực thôi đẩy phải thỏa mãn các nhu cầu tính dục, thông qua hoạt động tình dục trực tiếp hoặc những hành động dường như không liên quan (như thăng hoa). Trong tâm lí học của Freud, những khái niệm ban đầu về tính dục (sexuality) được mở rộng để bao trọn mọi hoạt động nhằm đạt được hay thỏa mãn khoái lạc của con người (Chú thích của ND). Từ thời kì ban sơ của lịch sử, nhiều cảm xúc đã bị gạt sang một bên, các rào cản tâm lí được dựng lên để ngăn cản cảm xúc tiến nhập vào vùng ý thức. Dồn nén không phải chỉ là tạm kìm lại, đình chỉ lại những cảm xúc hoặc suy nghĩ bị cấm đoán. Mặc dù bị đẩy vào vô thức, nhưng những suy nghĩ và cảm xúc này lại đặc biệt năng động như thể tràn đầy năng lượng, như thể chúng được nhận thức rõ ràng trong ý thức. Các lực vô thức này có tầm quan trọng lớn trong quá trình phát triển của cả giống loài cũng như mỗi cá nhân: (i) Đối với phát triển giống loài, chúng có thể dẫn đến mọi dạng bệnh tâm thần không ngừng quét qua xã hội. (ii) Đối với phát triển cá nhân, chúng như là những cơ chế phòng vệ bản thân khỏi các ý nghĩ khổ đau, hay hoạt động dưới dạng những kẻ tạo ra triệu chứng của bệnh loạn thần kinh chức năng sau này. Khái niệm dồn nén cảm xúc này rất quan trọng đối với phân tâm học. Nó giúp nhà phân tâm hiểu được các chứng rối loạn thần kinh chức năng khác nhau và những trò đùa tâm trí, chẳng hạn như tình trạng quên mất các từ quen thuộc. Tầm quan trọng xã hội của nó còn lớn đến mức: Xã hội văn minh sẽ nhanh chóng trở nên hỗn loạn nếu không có tác động của dồn nén cá nhân trong việc bảo vệ tính cách con người và trong việc dựng lên các rào cản xã hội nhất định. Ngay cả trong những bộ tộc nguyên thủy cũng tồn tại những cấm đoán về mặt phẩm hạnh - đạo đức và tôn giáo nhất định. Những cấm đoán này thực sự là những hình thái sơ khởi của dồn nén cá nhân và xã hội. Người man rợ, trông thì có vẻ thoải mái, không bị ràng buộc gì so với người văn minh, anh ta có thể chẳng thấy xấu hổ tí nào khi khỏa thân. Ấy vậy anh ta lại bị ràng buộc bởi những cấm đoán nhất định của bộ tộc – được gọi tên là taboo (điều cấm kị), đây là bộ luật bất thành văn cổ xưa nhất của loài người. CHỨNG QUÊN – MỘT THÔI THÚC CỦA NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN Phân tâm học giải thích rằng: Mọi tình trạng “quên”, ngoại trừ quên do mắc bệnh thực sự về não, đều là do dồn nén gây ra. Hãy thử lấy ví dụ chi tiết về một trường hợp đơn giản, trong đó cơ chế dồn nén là một yếu tố vượt trội để hiểu về chứng quên này và động cơ đằng sau nó. Có một người phụ nữ trẻ than phiền về khó khăn trong việc ghi nhớ hoặc nhớ lại các từ quen thuộc. Khám bệnh thì không tìm ra dấu hiệu bệnh tật nào về não bộ. Tìm hiểu sâu hơn mới hé lộ một thực tế rằng: Không hề có suy giảm trí nhớ thực sự. Những từ bị quên kia hóa ra có liên quan tới những tình huống cụ thể và những âu lo trong cuộc đời cô ấy. Tình trạng quên mất từ đó cũng không phải do lơ đễnh. Cô ấy càng tập trung vào một dữ kiện thực tế nào đó thì càng khó nhớ lại từ đấy. Bên cạnh đó, chứng quên này chỉ gắn với những từ quen thuộc. Đôi khi, một từ sai đi vào đầu cô ấy và ở lại đó, bất chấp nỗ lực tống nó ra ngoài. Phân tích tình trạng quên những từ quen thuộc này, chúng ta thấy rằng nó được thôi đẩy bởi một yếu tố từ vô thức: những cảm xúc bị dồn nén. Ví dụ: Cô hoàn toàn không thể nhớ lại cụm từ “sức mạnh tiềm tàng” (latent powers). Nhưng những liên tưởng tự do5 đã cho thấy rằng, tình trạng hay quên cụm từ này có liên kết chặt chẽ với những kí ức đau đớn bị nén lại về thói quen rượu chè trước đây của anh trai cô. Cô có nỗi lo sợ rằng, rượu có thể hủy hoại đầu óc anh ta, có thể khiến anh ta thất bại bởi không tận dụng được những sức mạnh tiềm tàng trong mình. Một lần khác, cô không thể nào nhớ lại từ “người giúp việc” (accommodator – ý chỉ những người phục vụ trong nhà). Sau đó, quá trình phân tích đã hé lộ rằng do sa sút về kinh tế, cô thực sự không muốn có người giúp việc để giảm bớt gánh nặng tài chính. Chính âu lo về tiền bạc của cô đã chặn từ này và ngăn nó không đi đến vùng ý thức. 5 Freud gán thuyết Tiền định nghiêm ngặt (rigorous determinism) cho các sự kiện hữu hình trần thế, nghĩa là ngay cả cái gọi là liên tưởng tự do đến một từ cho sẵn cũng có liên hệ trực tiếp với từ ban đầu theo cách nhân quả (causative). Tuy nhiên, kết nối này không phải lúc nào cũng được thực hiện bởi chủ thể, vì nó thường quá vô thức. Liên tưởng tự do ( free associationa): Một phương pháp trị liệu được Freud đưa ra vào năm 1885 tại Paris thay thế cho phương pháp thôi miên. Năm 1896, Freud đã công bố những nghiên cứu trị liệu bằng phương pháp này. Những điều bị dồn nén vào cấp độ vô thức được thể hiện dưới dạng tính dục, những câu nói bông đùa hay hành vi sai lạc. Nhà trị liệu để bệnh nhân ngồi hoặc nằm thoải mái, thư giãn, để ý nghĩ của bệnh nhân xuất hiện tự do, và bệnh nhân sẽ kể lại những ý nghĩ diễn ra trong đầu, kể lại những mong muốn và những cảm giác về thể chất hoặc là hình ảnh tâm lí khi điều đó nảy lên trong trí não. Bệnh nhân được khuyến khích tự do nhớ lại những cảm xúc hay những trải nghiệm trong quá khứ, không e ngại động chạm đến những chuyện riêng tư, dù đó là những chuyện đau khổ hay không có liên quan. Những ý nghĩ của thân chủ có thể lộn xộn, nhưng những liên tưởng tự do này là toàn bộ đầu mối quan trọng cho công việc của nhà trị liệu (Chú thích của ND). Căn nguyên của chứng quên các từ riêng lẻ đã được hé lộ, thế nên chúng không còn bị quên nữa, và cô ấy có thể nhớ lại chúng bất kì lúc nào. Sự bất lực không thể nhớ lại các từ quen thuộc rốt cuộc đã biến mất. Trong trường hợp này có thể thấy rằng, tình trạng quên mất các từ quen thuộc không phải do suy giảm trí nhớ, mà là do yếu tố cảm xúc. Cảm xúc này bị nén lại, đã đánh lạc hướng, ngăn chặn một từ tiến vào vùng ý thức, mặc dù nó vẫn được bảo tồn trọn vẹn trong tiềm thức. Bản thân việc bảo tồn từ đó không mắc sai sót nào cả, nó được cất giữ nguyên vẹn, chỉ có khả năng lặp lại nó là có khiếm khuyết mà thôi. Sự dồn nén cảm xúc chính là nguyên nhân dẫn đến khiếm khuyết trong việc lặp lại này – nghĩa là những từ bị quên mất này có liên hệ với một cảm xúc khó chịu nào đó. Việc không thể nhớ lại được sinh ra nhằm mục đích bảo vệ tâm trí khỏi cảm xúc khó chịu kia. Nói cách khác, tình trạng quên là một hành động phòng vệ có chủ đích, nó được thôi đẩy bởi mong muốn quên đi những cảm xúc khó chịu. Trong trường hợp này, vì mục đích chữa trị, không cần thiết phải phân tích mọi từ bị quên. Chỉ cần tháo gỡ một vài cảm xúc bị dồn nén, những dồn nén còn lại sẽ được giải tỏa, chúng ta sẽ không quên thêm những từ khác nữa. Như vậy, khẳng định lại là: Các từ bị quên không biến mất, chúng được giữ trong vô thức. Chúng đơn thuần bị đánh lạc hướng và không thể nhớ lại được do bị dồn nén. Sự dồn nén này là cố ý, vì những từ đó có liên hệ với các biến cố gây khó chịu về mặt cảm xúc. Đây là một ví dụ đơn giản về tác động của dồn nén cảm xúc. Các phương pháp khác nhau được tạo ra để cải thiện trí nhớ vì thế xét ở phương diện này thành ra vô ích. Bởi chúng đều dựa trên giả thiết sai lầm rằng: Khiếm khuyết trí nhớ là do sự bất lực trong việc cất giữ các dữ kiện thực tế, yếu tố cảm xúc hoàn toàn không được để ý đến. Tình trạng hay quên thông thường không phải do tình cờ, mà tuân theo những quy luật rõ ràng. Trong trường hợp trên, không chỉ có tình trạng hay quên, mà còn có cả hồi tưởng sai, tức là nỗ lực nhớ ra từ bị quên khiến họ gọi tên các từ thay thế khác. Cũng giống như quy trình gây ra chứng quên – một mong muốn quên vô thức, hành động thay thế từ thể hiện mong muốn che đậy vô thức đó. Chứng quên này được thôi đẩy bởi sự dồn nén. Những nguyên liệu bị dồn nén đã đánh lạc hướng từ đó, ngăn không cho nó tiến nhập vào ý thức. Kết tinh xung quanh từ “bị quên” là những cảm xúc đau khổ và chống đối. VÔ THỨC ĐƯỢC TẠO NÊN BỞI CÁC YẾU TỐ BỊ DỒN NÉN Khi nghiên cứu quá trình phát triển tinh thần của cá nhân, chúng tôi thấy rằng những dồn nén đầu tiên không xuất hiện trước ba tuổi, và chủ yếu ám chỉ các xung năng thôi thúc ban sơ: đói ăn và tình yêu. Rồi những đứa trẻ đó bắt đầu có cảm giác xấu hổ, cảm giác khoái lạc trong thân thể, một vài thú vui nghịch ngợm nhất định với phân hay nước tiểu, ham muốn khỏa thân chạy loanh quanh và ham muốn phá hoại đồ đạc. Khi trưởng thành rồi, dồn nén trẻ thơ chỉ xuất hiện trong giấc mơ bởi sự phòng vệ cao độ của ý thức và trước kiểm duyệt nghiêm ngặt của các quy ước xã hội. Dễ hiểu vì sao giấc mơ không-e-thẹn thường xuyên xuất hiện, chẳng hạn như mơ khỏa thân trước mặt nhiều người. Vô thức được tạo nên bởi các yếu tố bị dồn nén, do vậy ở trẻ nhỏ, các giấc mơ – có nguồn duy nhất từ vô thức – thực ra đơn thuần là những mong muốn ăn và chơi theo nghĩa đen, mà không có bất kì bằng chứng dồn nén nào. Điều này khiến ta phải xem xét một câu hỏi thú vị, có tính học thuật nhưng đầy ứng dụng thực tiễn, đó là: Tại sao “vô thức” lại vô thức – không được biết đến?6 6 Tham khảo tiểu luận thú vị của Nicoll, Rivers và Jones, “Why is ‘Unconscious’ unconscious?” (Tại sao “vô thức” lại vô thức?), British Journal of Psychology (Tập san Tâm lí học Anh Quốc), Quyển IX, 1918. Vô thức tập thể của chủng tộc/giống loài có mối liên hệ gì với những bản năng bầy đàn quan trọng nhất?7 7 Wilfred Trotter, Instincts of the Herd in Peace and War (Bản năng bầy đàn trong chiến tranh và hòa bình), 1918. Tâm lí học đám đông có thể được giải thích rõ ràng nhất trong bản năng bầy đàn – tức là vô thức tập thể, chứ không ám chỉ riêng ai. Nó thực sự là một suy nghĩ non trẻ chưa kết tinh thành hành động có ý thức. Vô thức cá nhân là một phần của vô thức tập thể và không thể tách rời khỏi nó. Không cá nhân nào có thể được giải phóng khỏi đám đông hay khỏi cấu trúc xã hội mà anh ta sống. Điều này cũng giải thích cho cái gọi là “sự lây lan tinh thần” (mental contagion) trong một tập thể. Theo đó, bản năng bầy đàn đảm bảo rằng hành vi của cá nhân sẽ hài hòa, trở thành một thể thống nhất với cộng đồng, cũng như xác định quy tắc đạo đức và xử thế, quan niệm và hành vi của con người. Bản năng bầy đàn, do vậy, thực sự là vô thức tập thể của xã hội. VÔ THỨC CÓ SÁU ĐẶC ĐIỂM CHÍNH, CỤ THỂ NHƯ SAU: 1. Vô thức là kết quả của sự dồn nén cảm xúc, nó không tương thích với nhân cách văn minh của ý thức; 2. Về bản chất, vô thức là một thể năng động. Ở trong vô thức, các quá trình tinh thần năng động nhất được trau chuốt và dàn dựng tỉ mỉ. Khao khát (desire) vốn là bản chất của nỗ lực năng động này. Những xung năng khao khát này tạo nên các biểu hiện bên ngoài của vô thức; 3. Vô thức là kho chứa các bản năng nguyên sơ; 4. Vô thức có đặc tính thơ ấu và đặc tính này sẽ dai dẳng suốt cuộc đời; 5. Vô thức là phi lí và có khuynh hướng lờ đi các tiêu chuẩn thông thường của đời sống xã hội; 6. Các đặc tính tính dục của vô thức (dùng từ “tính dục” theo nghĩa rộng, mang tính phân tâm học) nổi bật hơn và biểu hiện ở dạng biểu tượng, thay vì dạng nguyên bản. Dĩ nhiên không thể nói rằng, vô thức bao chứa toàn bộ các phẩm chất hèn hạ và hung ác của con người, rằng nó không có lí trí, nguyên thủy, hung dữ, độc ác, thiếu tính cá nhân và khả năng tự kiểm soát. Vẫn có những sự thăng hoa của vô thức, kết tinh trong chủ nghĩa anh hùng siêu phàm thời chiến tranh hay các cuộc cách mạng. Thực tế này cho thấy: Vô thức là kho chứa – nhưng không chỉ là kho chứa riêng của các bản năng nguyên sơ. Về nguồn gốc của vô thức, tốt nhất là trích dẫn Otto Rank8 và Sachs9, đó là những người mà chúng ta hoàn toàn đồng thuận. 8 Otto Rank (1884- 1939) là một nhà phân tâm học, nhà văn và giáo viên người Áo. Sinh ra ở Vienna, ông là một trong những đồng nghiệp thân thiết nhất của Sigmund Freud trong 20 năm. Ông là người viết chuyên nghiệp về các chủ đề phân tâm học, biên tập viên của hai tạp chí phân tâm nổi tiếng của thời đại, giám đốc điều hành của nhà xuất bản Freud và một nhà lí luận và trị liệu sáng tạo. Năm 1926, Rank rời Vienna đến Paris và trong phần còn lại của cuộc đời, ông đã thành công với tư cách là một giảng viên, nhà văn và nhà trị liệu ở Pháp và Hoa Kì. 9 Hanns Sachs (1881- 1947) là một trong những nhà phân tâm học sớm nhất, và là một người bạn thân của Sigmund Freud. Ấn phẩm phân tích đầu tiên của Sachs về chủ đề giấc mơ (1912) đã được Freud trích dẫn trong nghiên cứu về tâm lí học nhóm, cũng như nghiên cứu sau đó của ông năm 1920 – The Community of Daydreams (Cộng đồng mơ mộng). Sau này, Sachs khám phá quy tắc làm giảm cảm giác tội lỗi bằng cách chia sẻ những giấc-mơ- ngày ở trẻ em và trải nghiệm nghệ thuật ở người lớn. “Câu hỏi đầu tiên của chúng ta tất nhiên sẽ liên quan đến nguồn gốc của vô thức. Vì vô thức hoàn toàn đứng ở ngoài, xa lạ và vô danh trước nhân cách ý thức, xung năng thôi thúc đầu tiên là để phủ nhận kết nối với ý thức nói chung. Đây là cách mà các tín ngưỡng dân gian đã luôn đối xử với vô thức. Trong các trạng thái tinh thần bất thường, chúng ta có thể nhìn thấy các mẩu của vô thức, song luôn xem đó như việc “bị ám”. Chúng ta luôn coi đó là biểu hiện của một cá nhân kì lạ, của một con quỷ đã chiếm hữu bệnh nhân. Tuy nhiên, chúng ta không thể mãi đổ lỗi cho những thế lực siêu nhiên như thế nữa, mà phải giải thích các sự kiện thực tế này theo hướng tâm lí học. Giả thuyết rằng có một sự chia cách nguyên thủy đời sống tâm linh tồn tại từ khi sinh ra, một sự mâu thuẫn liên miên giữa hai lực lượng ý thức và vô thức. Vì chia tách này đã hiển hiện ngay từ ban đầu nên mối nguy dịch chuyển các ranh giới không tồn tại. Giả định khả thi duy nhất – được củng cố thêm bởi thí nghiệm – là: Sự chia tách giữa ý thức và vô thức không tồn tại sẵn đó, mà chỉ bắt nguồn và lớn dần theo thời gian. Tạo ra đường ranh giới này chính là trình độ văn hóa (level of culture). Do vậy, ta có thể nói là nó bắt đầu sớm vào thời thơ ấu và tạm thời chấm dứt vào khoảng thời gian dậy thì. Vô thức bắt nguồn trong thời thơ ấu của con người – hoàn cảnh này mang đến lời giải thích cho hầu hết các tính chất lạ thường của nó.”10 10 Otto Rank và Hans Sachs, The Significance of Psychoanalysis for the Mental Sciences (Vai trò của phân tâm học đối với các môn khoa học tinh thần),1915. Một lượng dồn nén nhất định thường là công cụ bảo vệ an toàn cho cá nhân. Dồn nén quá mức có thể khiến cho các nguyên liệu bị nén lại bùng nổ. Nhất là khi con người cảm thấy mệt mỏi hay căng thẳng khủng khiếp, các chứng rối loạn thần kinh chức năng hoặc suy nhược thần kinh có cơ hội để phát triển. Một cơn suy nhược thần kinh không phải là do làm việc quá độ hay lo lắng quá mức, chúng chỉ đơn thuần là những kích thích giúp mở khóa các nguyên liệu vốn bị nén vào trong vô thức kia. Tư tưởng phân tâm học này hết sức đúng đắn và hoàn toàn trái ngược với tuyên bố giáo điều của Babinski11: “Khi tâm hồn con người rung động trước một cảm xúc chân thành và sâu thẳm, thì chẳng còn chỗ nào cho chứng cuồng loạn trong tâm hồn đó.” Tất nhiên, một quan niệm như thế chỉ dùng để ứng phó với các quá trình ý thức có thể nhận biết được. Để hiểu được mối liên hệ của các cảm xúc bị dồn nén với chứng cuồng loạn, cần diễn giải vấn đề chứ không phải mô tả nó. 11 Joseph Jules François Félix Babinski (1857 - 1932) là một nhà thần kinh học người Pháp gốc Ba Lan. Ông được biết đến với mô tả về phản ứng Babinski – một phản xạ thực vật mang tính bệnh lí cho thấy tổn thương tủy sống và vỏ não. Nền văn minh hiện đại phải hứng chịu một lời nguyền khủng khiếp: Đối diện với những cảm xúc bị dồn nén quá mức, con người đưa ra các quy tắc và chuẩn mực đầy nguy hiểm về hành vi, cư xử. Nhưng càng như thế, con người càng sống trong những mâu thuẫn liên miên giữa ý thức và vô thức, giữa lí trí và cảm xúc. Khi dồn nén bắt đầu khởi phát trong đứa trẻ, đó là lúc những vấn đề tâm lí phát sinh. Đứa trẻ đáng ra cần được chơi và hoạt động tự do, người lớn không nên áp đặt luật lệ của mình lên nó. Nó nên được dạy cách làm chủ những cảm xúc đó, thay vì dựng nên một lí tưởng không thể nào hoàn thành, đến mức phải dồn nén lí tưởng này vào vô thức, khiến cho nội tâm nó mâu thuẫn, giằng xé. Tính bạo dâm là một dạng cảm xúc căm ghét bị nén lại. Trong giáo dục trẻ giai đoạn đầu, sự căm ghét bị nén lại mạnh mẽ không biểu hiện ra ngoài. Nó chỉ hiển lộ trong vài cơn bùng nổ cáu kỉnh và giận dữ của trẻ. Trẻ con cũng lấy làm thích thú khi giáng sự trừng phạt vào đồ chơi, búp bê, những con vật hay những đứa trẻ khác – đối với trẻ em, đó là những đối tượng tượng trưng cho sự sống. Người trưởng thành dường như chưa bao giờ chế ngự thành công cái ác bị dồn nén này để chuyển hóa nó thành hoạt động xã hội hữu ích hơn. Họ giữ lại khoái cảm thơ ấu của mình bằng cách tìm kiếm sự thích thú từ việc gây ra đau khổ cho người khác. Bi kịch thay, những kẻ thực hiện và gieo rắc cái Ác lên người khác không nhận thức được cái Ác bị dồn nén trong họ, và vô thức tìm kiếm những chỗ hòng thỏa mãn cái Ác bị dồn nén này. Những người phản đối việc mổ xẻ động vật sống (để nghiên cứu khoa học) cũng có khả năng bị rối loạn thần kinh chức năng – các khuynh hướng bạo dâm vô thức gây đau đớn cho người khác của họ được che đậy hay bù trừ bởi sự dịu dàng quá mức dành cho động vật. Hãy xem ví dụ sau đây: Một người phụ nữ trẻ đang được trị liệu do mắc một dạng chứng cuồng loạn lo âu nghiêm trọng. Hai giấc mơ sau đây đã xuất hiện vào một đêm nọ. Giấc mơ 1: Con chó nhỏ của cô hình như bị thương và chảy đầy máu, cô đưa nó tới một bác sĩ phẫu thuật thú y và đặt trên một tấm nệm. Giấc mơ 2: Con chim hoàng yến của cô bị hai con mèo giết và dính đầy máu. Phân tâm học chỉ ra rằng: Có nhiều giấc mơ diễn ra trong một đêm, hay trong suốt khoảng thời gian ngủ, thì tức là những giấc mơ ấy có liên quan đến cùng một cảm xúc bị dồn nén. Nghi vấn trong những trường hợp kể trên là: Liệu chúng ta đang đối mặt với hai giấc mơ, hay hai nửa của cùng một giấc mơ? Các giấc mơ đại diện cho những cảm xúc bị dồn nén trong vô thức, chúng thỏa mãn những mong muốn hiện tại và được củng cố bởi những cảm xúc bị nén từ thời thơ ấu. Trong trường hợp này, người phụ nữ trẻ bình thường vốn luôn quá thương cảm với động vật. Trong nhiều năm cô là thành viên của Hội ngăn chặn hành vi tàn nhẫn với động vật, đồng thời cũng là một người nhiệt tình chống mổ xẻ động vật sống. Chỉ cái ý tưởng gây đau đớn cho động vật thôi cũng đã luôn khiến cô buồn nôn và trở nên cuồng loạn nếu thấy một con vật phải chịu đựng. Sự nặng lòng của cô dành cho động vật lớn đến mức cô nuôi chim, chó, khỉ và thậm chí một con cá sấu khô trong nhà. Những phản ứng bên ngoài cho thấy người phụ nữ trẻ này rất nhạy cảm với sự đau đớn của động vật, ấy thế mà lại có một kho chứa cái ác bị dồn nén trong vô thức. Các giấc mơ của cô đã “tố cáo” điều đó, vì mọi giấc mơ là sản phẩm của sự dồn nén trong vô thức. Sự lo ngại cho những con vật không thể phản kháng đơn thuần chỉ là một sự phòng vệ của ý thức trước cái Ác bị dồn nén trong vô thức. Một ví dụ tuyệt vời về tính bạo dâm trong lịch sử là Gilles de Retz từ Brittany – nguyên mẫu Yêu Râu Xanh – bị hành quyết vì tội sát nhân khoái lạc12 ở Nantes năm 144013. 12 Sát nhân khoái lạc (lust murder): Kẻ đi tìm cảm giác mê đắm bằng việc giết người khác. 13 Xem Thomas Wilson, Blue-Beard: A Contribution to History and Folklore (Yêu Râu Xanh: Một đóng góp cho lịch sử và văn học dân gian), 1899. Trong tất cả các tác phẩm văn chương vĩ đại, nhân vật Iago - Yêu Râu Xanh có vị trí nổi bật, đó là một loại người mà cái ác bị nén lại, một kẻ tìm kiếm sự thỏa mãn khoái lạc trong nỗi đau đớn và thống khổ của người khác. Iago độc ác bởi vì gã bệnh hoạn, lấy đau đớn làm một nguồn khoái lạc; đằng sau đó ẩn giấu một nhân cách luôn hoài nghi, cay độc và hoàn toàn thiếu mất cảm xúc tình dục (erotic feeling). Iago không phải kiểu người “hiểm ác vô hướng đang đi săn tìm động cơ (motive-hunting)”, mà những động cơ ấy ẩn sẵn trong nhân cách của gã. Thông thường, trong các mâu thuẫn vợ chồng – một phần rất lớn gây nên các chứng cuồng loạn – có một khuynh hướng bộc phát mạnh mẽ cái ác bị dồn nén khi vợ chồng cãi nhau. Khuynh hướng này có thể được gọi là: Các phản ứng thơ ấu trước những tình huống người lớn. Lịch sử văn minh đã chứng minh chắc chắn rằng: Tồn tại một mối quan hệ gắn bó giữa tính độc ác và xung năng tính dục. Chúng ta có thể lấy ví dụ từ những đối tượng thèm khát được thỏa mãn khi chính họ bị quật bằng roi, hay khi họ quật người khác bằng roi, và những vụ sát nhân khoái lạc kiểu đó luôn luôn thu hút rộng rãi sự chú ý của công chúng. Đó thực sự là hành động thỏa mãn cảm giác tính dục bằng cái nhìn hoặc bằng cách gây đau đớn theo đúng nghĩa đen. Người trưởng thành nào cũng đều có khuynh hướng này ở một mức nhất định, nhưng nó thường bị nén lại rất nhiều. Ở những điều kiện nhất định, sự dồn nén sụp đổ, người trưởng thành rơi vào trong trạng thái thời thơ ấu – tức là ít hoặc không hề có dồn nén nào. Trong những hoàn cảnh này, cái ác bị dồn nén được phóng thích và phóng chiếu thành mọi dạng triệu chứng bất thường. Chẳng hạn trường hợp bật cười tự động, sau khi phân tích đã phát hiện là dựa trên những tưởng tượng bạo dâm, cái cười kia là khoái lạc trong vô thức với các ý tưởng về sự đau đớn. SỰ PHẢN KHÁNG CỦA CHỦ THỂ TRONG QUÁ TRÌNH TRỊ LIỆU Trong quá trình phát triển ban đầu của phân tâm học, nguyên nhân của mọi chứng rối loạn thần kinh chức năng đều quy về trong cái gọi là chấn thương hay tổn thương cảm xúc. Kí ức đau đớn về sự kiện chấn động vẫn còn đang chảy trong vô thức, nhưng bị che đậy khỏi ý thức của chủ thể và gây ảnh hưởng dưới dạng một thể ngoại lai. Vào thời điểm đó, một cuộc tranh luận đến cùng để thấu hiểu, giải quyết hay giải tỏa cảm xúc một cách mạnh mẽ triệt để (abreaction) tạo nên cái gọi là phương pháp thanh lọc tâm (catharsis). Người ta cho rằng như vậy là đủ để chữa lành bệnh. Những người không bắt kịp sự phát triển gần đây của phép trị liệu phân tâm học vẫn khăng khăng giữ quan điểm này. Phương pháp phân tâm đã trở nên phức tạp, tinh vi hơn với sự hoàn thiện của kĩ thuật thực hành trị liệu và sự thấu hiểu sâu hơn về các dồn nén vô thức ảnh hưởng đến cảm xúc và thôi đẩy hành vi của con người. Nhiệm vụ chủ yếu của phân tâm học giờ đây cốt ở việc đánh bại những phản kháng nội tại này, ngăn cản các cảm xúc bị dồn nén khỏi việc tìm thấy một kiểu thỏa mãn bệnh hoạn. Những sự việc xảy ra trong thời gian gần chỉ có vai trò là các yếu tố thúc đẩy quá trình gây ra chứng tối loạn thần kinh chức năng. Sự thực là mầm bệnh đã được ủ từ những cảm xúc bị dồn nén vào vô thức và không được giải tỏa một cách bình thường. Thực ra không nhất thiết nén lại những kí ức và những cảnh tượng gây xúc động, vì sự dồn nén những tưởng tượng hay hình ảnh – đặc biệt là những tưởng tượng hay hình ảnh thời thơ ấu – có thể gây nên các biểu hiện rối loạn thần kinh chức năng. Chẳng hạn, nỗi mê đắm14 bất thường của con gái đối với cha và con trai đối với mẹ trong giai đoạn đầu thời thơ ấu gây nên chứng rối loạn thần kinh chức năng ở người trưởng thành. Phân tâm học gọi đó là Phức cảm Electra hay Phức cảm Oedipus. Mê đắm cha mẹ không nhất thiết gây ra tâm lí sai lệch, nhưng nếu cảm xúc này gắn chặt với hình ảnh của cha hoặc mẹ thì nó đủ để dẫn đến rối loạn thần kinh chức năng. Vì hình ảnh này, cũng như nỗi nặng lòng vướng mắc, khi được bảo tồn trong vô thức có thể thực sự tác động tiêu cực và nguy hại đến tâm lí con người. 14 Mê đắm ( fixation) là thuật ngữ dùng trong phân tâm học cho biết rằng suốt quá trình phát triển cá nhân trong thời thơ ấu, vướng mắc cảm xúc hay nặng lòng với một thành viên gia đình nán lại quá lâu tại một độ tuổi nhất định, ở đó nó bị nén vào vô thức. Nhưng về sau trong cuộc đời, vì một vài lí do đặc biệt, sự mê đắm này trở nên có sinh khí trở lại, biểu hiện ở dạng một chứng rối loạn thần kinh chức năng. Vì cá nhân kia chưa bao giờ hoàn toàn có thể giải phóng chính mình khỏi vướng mắc thời thơ ấu trong quá trình phát triển. Thoát khỏi vướng mắc này là một trong những vấn đề của phép trị liệu phân tâm học. Người loạn thần kinh chức năng do vậy có thể vật lộn trong đau khổ hay không thể buông bỏ được hình ảnh của một người đã chết. Trên thực tế, hình ảnh khiến bệnh nhân thấy sững sờ có thể là của người đã chết trước khi bệnh nhân ra đời. Chính những quan sát thực tế này lại chứng minh được rằng mâu thuẫn tinh thần không nhất thiết phải dính dáng đến con người thật, song hình ảnh của người đó có thể tạo ra một thứ giống như mâu thuẫn. SỨC MẠNH CỦA SỰ DỒN NÉN PHỤ THUỘC VÀO: 1. Tình huống mà nó khởi nguồn; 2. Trải nghiệm chính xác trong những tình huống ấy; 3. Thái độ xã hội nói chung và thái độ đạo đức đối với ý nghĩ đau đớn; và 4. Mong muốn chạy trốn khỏi thực tại, khỏi những cảm xúc bị dồn nén một cách thường trực và vô thức. Một dồn nén có thể nghiêm trọng đến mức để chạy trốn dồn nén đó, chủ thể có thể đi lùi về những dạng hoạt động tinh thần và thể chất của thời thơ ấu, như trường hợp đa nhân cách chẳng hạn. Sự phản kháng nội tại ngăn cản các cảm xúc bị dồn nén không trồi lên trên bề mặt ý thức. Đó là một cơ chế bảo vệ, một hành động phòng vệ tâm lí. Song cũng chính sự phản kháng này diễn ra trong đời sống hàng ngày gây ra sự yêu ghét, sự đối kháng, cơn cáu kỉnh của chúng ta với những người xung quanh. Các chứng rối loạn thần kinh chức năng trở nên rõ rệt và bộc lộ rõ tính chất nhất chính trong quá trình điều trị phân tâm. Bởi ở trong những điều kiện này, các phản kháng cung cấp nguyên liệu tốt nhất để nghiên cứu hiện tượng dồn nén. Trong suốt quá trình trị liệu, lực dồn nén – vốn gây nên tình trạng loạn thần kinh chức năng – giữ những cảm xúc bị dồn nén ở lại trong vô thức, và liên tục nỗ lực ngăn cản những cảm xúc này trồi lên vùng ý thức. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn giữa trị liệu phân tâm học và khao khát che đậy cảm xúc. Nhà trị liệu buộc phải đánh bại sự phản kháng với việc điều trị này. Mục đích của phản kháng là giữ những nguyên liệu, những cảm xúc bị dồn nén trong vô thức. Do vậy mọi liệu pháp phân tâm học đều hướng đến việc vượt qua những phản kháng đó. Chừng nào chúng còn tồn tại, chừng đó chứng rối loạn thần kinh chức năng vẫn còn dai dẳng đeo bám. Trong lúc trị liệu, những phản kháng này có thể khoác lên mình nhiều dạng khác nhau, chẳng hạn như: ghét vô cớ, sợ hãi và lo sợ đối với bác sĩ trị liệu; tình trạng “quên mất” các giấc mơ và các cuộc hẹn trị liệu; sau cùng là những giấc mơ trong đó phản kháng vô thức trở nên rõ ràng. Thường thì trong những giấc mơ đó, cuộc trị liệu được nhìn nhận theo hướng không mấy tích cực. Hoặc tệ hơn, trong suốt quá trình trị liệu, tâm trí giống như làm một cuộc oanh tạc thực sự. Về cơ bản có một số hành động phản kháng đã được phát hiện, chẳng hạn như: một hành động mang tính triệu chứng, quên mất một giấc mơ, đến muộn trong một cuộc hẹn với bác sĩ, một lỗi chính tả kì lạ, v.v. Sau khi những phản kháng này bị đánh bại, cuộc trị liệu mới diễn tiến trôi chảy. Ví dụ trường hợp của một người phụ nữ trẻ đang trải qua một đợt điều trị chứng cuồng loạn âu lo. Trong quá trình trị liệu, cô có giấc mơ sau đây: Cô hình như đang làm bài kiểm tra lịch sử Trung Quốc, nhưng đề bài được viết lộn ngược trên bảng. Cô cầm trong tay một bức tượng Phật bán thân bằng sứ màu xanh nước biển và trắng. Cô không thể trả lời các câu hỏi kiểm tra, thực ra là cô không thể đọc được đề bài và do vậy nộp giấy trắng. Nhà phân tâm phân tích giấc mơ này rất rõ ràng: Nó chính là một sự phản kháng ở dạng các biểu tượng. Quá trình biểu tượng hóa được thực hiện vô thức, chủ thể hoàn toàn không nhận thức được các biểu tượng được dùng đến. Nó thực sự đại diện cho kiểu suy nghĩ vô thức ở một dạng mà ý thức không nhận ra được. Và giống như mọi biểu tượng, việc lựa chọn dùng biểu tượng nào không phải là tùy tiện, ngẫu nhiên. Các biểu tượng ấy đều bắt nguồn từ vô thức của chủ thể.15 15 Xem What is psychoanalysis? (Phân tâm học là gì?) của cùng tác giả (trang 60-61) để có được lời giải thích chi tiết hơn về Chủ nghĩa biểu tượng hóa trong phân tâm học. Trong trường hợp này, môn học trong bài kiểm tra (lịch sử Trung Hoa), sự biến dạng các câu hỏi (lộn ngược) và bức tượng nhỏ (Phật Đà) – tất cả đều biểu thị một sự phản kháng. Cụ thể là, phân tâm học là một điều bí ẩn đối với cô, cô không thể hiểu ý nghĩa hay mục đích của nó. Người thầy trong giấc mơ là nhà phân tâm học và tờ giấy kiểm tra trắng mà cô nộp cho ông ta tượng trưng cho việc cô chẳng biết gì về bài kiểm tra (phân tâm học). Có các cường độ dồn nén khác nhau, nhưng cơ chế và mục đích của chúng giống nhau, bất kể sự dồn nén đó gây ra tính đãng trí, chứng quên trong cuộc sống hàng ngày, hay tạo ra một chứng cuồng loạn nghiêm trọng. Trong các giấc mơ, những cảm xúc bị dồn nén thường xuất hiện rõ ràng một cách sửng sốt, hoặc đúng theo nguyên bản, hoặc được biểu tượng hóa, tùy theo mức độ phản kháng mà tạo ra sự chuyển vị hay biểu tượng hóa. Đôi khi những cảm xúc bị dồn nén nguyên gốc bị đánh lạc hướng trong khi ngủ, đến mức các giấc mơ khoác lên một dáng vẻ mà mọi người vẫn biết đến dưới tên gọi: ác mộng và giấc mơ lo âu (về mặt lí thuyết). Sức mạnh gây ra sự dồn nén luôn có tính năng động và sau một khoảng thời gian, sự dồn nén lâu dài này chìm sâu hơn vào vô thức. Vì thế, người càng lớn tuổi, hay quá trình mắc chứng rối loạn thần kinh chức năng càng dài thì điều trị phân tâm lại càng trở nên khó khăn. Bởi nguyên nhân gây bệnh của các ca này có thể bị chôn sâu ở các tầng thấp nhất của vô thức. Nhiệm vụ của nhà phân tâm học là đào lên những cảm xúc bị chôn vùi đấy. Chính những tầng đa dạng này của vô thức mang đến những khó khăn và phức tạp cho phân tâm học trong quá trình tháo gỡ các dồn nén và xung đột thần kinh16. Việc đi xuống các tầng vô thức khác nhau cũng khó khăn ngang ngửa với điều trị xung đột thần kinh: 16 Trong bối cảnh của lí thuyết phân tâm học, xung đột thần kinh là xung đột nội tâm dẫn đến rối loạn cảm xúc và điều chỉnh hành vi liên tục sai (Theo psy - chologydictionary.org – Chú thích của ND). Tầng vô thức thấp nhất là các cảm xúc nguyên thủy và cổ xưa, chẳng hạn như bản năng dinh dưỡng - sinh tồn và tình dục; Tầng tiếp theo là giận dữ, sợ hãi và độc ác; Tầng cao hơn một chút là các mê đắm bất thường dành cho gia đình; Tầng kiểm duyệt sau cùng là tiền ý thức (fore- conscious) và ý thức. Tất nhiên, sơ đồ này chỉ là giản lược, nhưng nó có ích cho mục đích mô tả. Mọi giấc mơ đều được hình thành ở tầng dưới tầng kiểm duyệt. Nhà phân tâm vì thế trở thành nhà cổ-phân tâm17, chuyên khám phá các tầng vô thức khác nhau. Lần theo mỗi tầng vô thức cũng giống như làm một cuộc hành trình đi ngược về đời sống tinh thần tập thể của cha ông chúng ta – đấy chính Cổ- phân tâm học18. 17 Ngụ ý giống như các nhà Cổ sinh vật học – chuyên nghiên cứu về lịch sử phát triển của sự sống trên Trái Đất, về các loài động vật và thực vật cổ xưa, dựa vào các hóa thạch (chứng cứ về sự tồn tại của chúng được bảo tồn trong đá) (Chú thích của ND). 18 Quan điểm về các tầng vô thức khác nhau này được bàn đến kĩ lưỡng trọn vẹn hơn trong một chương sau của cuốn sách này. CON ĐƯỜNG XẢ THOÁT CỦA NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN Trong cuộc chiến giữa các cảm xúc bị dồn nén và cuộc sống ý thức xã hội, có những lúc con người phát cáu hay ác cảm với ai đó, điều đó có nghĩa là một chỗ đau trong vô thức của họ đã bị động chạm đến. Tất cả chúng ta khi sống đều cố tìm cách tránh né nỗi đau đớn thẳm sâu và tìm kiếm khoái lạc tạm bợ. Sống là một nỗ lực liên tục nhằm chạy trốn thực tại. Sân khấu, nhảy nhót, phim ảnh và thuốc gây mê… vì thế phổ biến như những liều thuốc “giảm đau” tạm thời, đi kèm theo là những tác dụng phụ khó lường. Chúng ta hầu như “lãng quên” quá khứ, đặc biệt là những kí ức thời thơ ấu. Không phải vì nó đã biến mất khỏi trí nhớ hay đã bị tiêu hủy. Nó bị lãng quên đơn thuần vì nó bị dồn nén. Thực tế cho thấy rằng những kí ức có vẻ bị lãng quên này thường xuất hiện trong các giấc mơ (theo nghĩa đen), hoặc trong các hành vi mang tính triệu chứng. Các cảm xúc bị dồn nén thường tìm kiếm thỏa mãn trong phương tiện xả thoát có tính nguyên thủy – có dạng một chứng rối loạn thần kinh, chẳng hạn như rối loạn lo âu, sợ hãi, trầm cảm, hay suy nghĩ cưỡng ép. Nó dễ nhận thấy vì nó gây đau đớn không thể nào chịu đựng được. Những người có thể gạt bỏ các cảm xúc bị dồn nén của họ trong khi tái thiết xã hội, hỗ trợ người khác, làm công việc trí tuệ hay trong khi theo đuổi sáng tạo nghệ thuật là những cá nhân hạnh phúc nhất. Quá trình sử dụng một cảm xúc bị dồn nén vì một mục đích có ích hơn được gọi tên là sự thăng hoa. Người nào nén các cảm xúc của họ, trở thành những nạn nhân hướng nội thu mình và đóng cửa tính cách của mình bằng cách xây lên một bức tường phản kháng xung quanh nhân cách đó, sẽ không thể tìm thấy một lối thoát thích đáng khỏi các xung đột quá sức chịu đựng. Họ sẽ bộc lộ phản ứng thơ ấu trước những tình huống của người trưởng thành. Đó là những bệnh nhân rối loạn thần kinh thực sự rất bất hạnh. Như vậy, nền văn minh hiện đại với các chuẩn mực xử thế, phẩm hạnh, đạo đức và xã hội khiến con người có xu hướng nén vào trong các cảm xúc ngay thật của mình. Sự dồn nén đấy là cơ hội để các chứng rối loạn thần kinh khởi lên. Và trong cuộc sống thường ngày, chúng ta trở thành “thiên tài” nói dối – nói dối nghiễm nhiên trở thành tập quán của nền văn minh loài người. Những cảm xúc bị dồn nén này không bao giờ xuất hiện với hình dạng nguyên gốc của chúng. Chúng hiện hình dưới dạng các giấc mơ, gây nên các chứng cuồng loạn, những nỗi lo âu, sợ hãi, suy nghĩ cưỡng ép, trầm cảm và mất ngủ. VÔ THỨC – MỘT TÀI SẢN CHUNG CỦA XÃ HỘI NGUYÊN THỦY VÀ VĂN MINH Lực gắn kết của xã hội hiện đại dựa trên dồn nén, nhưng không phải theo nghĩa do các hệ thống pháp luật trấn áp, mà là một dồn nén khởi lên từ bên trong mỗi cá nhân. Phân tâm học thấu hiểu các yếu tố quyết định của các xung năng thôi thúc bị dồn nén này, chúng thuộc về quá trình phát triển tinh thần của con người. Song bất chấp các mâu thuẫn tinh thần nội tại ấy, sự dồn nén này tạo ra một vẻ thoải mái bên ngoài. Mỗi chúng ta ai nấy đều có các mâu thuẫn tinh thần mà chúng ta nỗ lực nén lại – sự dồn nén này có thể thành công hoặc không. Đôi khi, như mặt trái của sự dồn nén, một cá nhân có thể tiến vào trạng thái thoải mái ảo ảnh, nghĩa là có thể thay thế hoặc tìm ra một lí do hợp lí cho các xung đột nội tâm của mình. Nhưng sự hợp lí hóa ấy chỉ là một vỏ bọc che đậy cho xung đột đó, và chúng ta rơi vào thế giới của những lời nói dối bất tận. Dồn nén tập thể (mass repression) chính là một tập hợp các dồn nén cá nhân bị gắn chặt lại với nhau bởi bản năng bầy đàn. Do sự phát triển của tính e lệ ngại ngùng, dồn nén mạnh mẽ nhất thuộc về lĩnh vực tính dục. Vô thức là một tài sản chung của cả xã hội nguyên thủy lẫn xã hội văn minh. Tuy nhiên trong xã hội văn minh, dường như con người ta phải dồn nén nhiều hơn. Các rối loạn thần kinh chức năng khởi lên từ việc bản năng tính dục bị chặn lại. Nhưng thuốc chữa bách bệnh không phải là buông thả tính dục, nếu ệ gp g ụ không thì mấy gã Don Juan đã thoát khỏi các chứng rối loạn thần kinh rồi. Một nhà phân tâm học - nhà trị liệu khi tiếp cận vấn đề dồn nén, cần nhiều thứ hơn là một kĩ năng điêu luyện, một kĩ thuật hoàn hảo, nhiều hơn những kiến thức về tâm lí học. Tâm trí ông phải trong sạch như hai bàn tay của nhà phẫu thuật trước khi thực hiện ca phẫu thuật. Thái độ của ông là giúp đỡ bệnh nhân chứ không phải đưa ra bất kì bình phẩm, phán xét nào về bệnh nhân như một nhà đạo đức học. Bất kì bình phẩm phán xét nào (thậm trí ở trong đầu) về lịch sử tinh thần của bệnh nhân, về những xung đột và dồn nén của họ, đều dễ dấy lên bên trong nhà phân tâm một phản kháng nội tại. Phản kháng này trong nhà phân tâm cũng như ở trong bệnh nhân, có thể gây trở ngại cho quá trình trị liệu. Cả bệnh nhân lẫn nhà trị liệu đều nên nhận ra rõ ràng vấn đề mà họ đang xử lí, sự thật phải được bàn luận triệt để, thẳng thắn, bất kể đau đớn ra sao. Mỗi nhà phân tâm cũng nên thấu hiểu về những phản kháng và phức cảm, về các thành kiến xã hội, tôn giáo và chính trị khác nhau của riêng họ. Phân tâm học có giá trị lớn trong một nền văn minh hiện đại phức tạp, không chỉ đối với việc điều trị các chứng rối loạn thần kinh, mà còn mang đến sự thấu hiểu các khiếm khuyết tính cách nhất định trong con người; giúp con người ý thức về những dồn nén của mình thay vì đóng tâm trí lại trước chúng, tận dụng sự hiểu biết có được để phát triển tính cách của họ. Một cuộc điều trị phân tâm do vậy là một hành động định hướng, có thể thay đổi bản chất và những động lực thôi đẩy con người, làm cho thể vô thức của cá nhân những điều mà giáo dục làm cho con người xã hội. Một quá trình trị liệu trọn vẹn là một lần cải biến trọn vẹn con người. Như chúng ta đều biết: Phân tâm học – được Freud xây dựng tỉ mỉ – là một hoạt động phân tích tâm trí, một hoạt động nghiên cứu các động lực, dồn nén và mâu thuẫn tinh thần của con người. Phân tâm học cũng giải thích rằng, vô thức của cá nhân là những nền tảng căn bản tạo nên tính cách và tạo dựng hành vi của người đó. Nói cách khác, tính cách và vận mệnh của mỗi cá nhân được quyết định bởi vô thức của mỗi người (chứ không phải bởi ý thức như chúng ta vẫn tưởng). Đặc điểm tính cách không phải do được kế thừa, mà là do thu nhặt được. Vào năm 1907, một trong những nhà tư tưởng vĩ đại thuộc trường phái Freud là Alfred Adler từ Vienna (Áo), bắt đầu xuất bản những tác phẩm đáng chú ý về tâm lí học cá nhân19. Ông giải thích rằng, những đặc điểm tính cách vượt trội là nỗ lực của cá nhân vượt qua một mặc cảm tự ti về tinh thần, trí óc hoặc về cơ thể. Chẳng hạn như một người từng là một đứa bé trai yếu đuối khi còn nhỏ, sẽ trở thành một người hăng hái, năng động, nỗ lực. Hay một người đã từng có những suy nghĩ phản đối, có thể trở nên quá hăng hái nhiệt tình cải cách cái gọi là nghệ thuật và văn chương tục tĩu. Demosthenis – một người nói lắp – đã trở thành nhà hùng biện vĩ đại nhất của Hi Lạp. 19 Xem hai bài viết quan trọng của Alfred Adler: “The Neurotic Constitution” (Cấu tạo rối loạn thần kinh chức năng ) và “Organ Inferiority and Its Psychical Compensation” (Mặc cảm khuyết tật và sự bù trừ). Các nhà trị liệu đều biết rằng, một cơ thể yếu đuối hay khiếm khuyết có khuynh hướng vượt qua các khiếm khuyết của nó bằng cách bù trừ, chẳng hạn: một trái tim yếu đuối bù đắp bằng cách trở nên lớn hơn và khỏe hơn; nếu một quả thận bị lấy mất, quả thận còn lại sẽ to ra và thực hiện công việc của cả hai. Khuynh hướng bù đắp khiếm khuyết này cũng diễn ra trong tinh thần. Cảm giác tự ti buộc cá nhân có những nỗ lực cao nhất để vượt qua khiếm khuyết. Cá nhân bù đắp cho sự tự ti của mình theo nhiều cách khác nhau: trở nên tự cao tự đại, khoe khoang, khoác lác, ghen tị, có khuynh hướng xem thường mọi người và mọi thứ – ngoại trừ bản thân mình; có những cảm hứng vĩ cuồng, những suy nghĩ lớn lao và tuyệt đối. Tất nhiên, theo quan điểm của phân tâm Freud, sự bù đắp này thực ra chỉ là dồn nén cảm giác tự ti. Khuynh hướng bù đắp cho khiếm khuyết là một quá trình tinh thần vô thức, điều duy nhất có thể ý thức được là sự bù đắp quá mức dưới dạng những giấc mơ hão huyền giữa ban ngày. Người mơ không bao giờ biết đến nguồn gốc của chúng và thấu hiểu chúng. Những giấc-mơ-ngày này thường xuyên lặp lại đến mức chúng trở thành một phần tính cách, có khi đến mức người ta không thể phân biệt chúng với thực tại. Do vậy, những người cảm thấy tự ti – cho dù cảm giác đó là thật hay tưởng tượng – là những người sở hữu một cơ thể khiếm khuyết mà họ cố gắng bù đắp. Đây là đóng góp vĩ đại của Adler: Mối quan hệ đáng chú ý giữa sự khiếm khuyết của thân thể hoặc cảm giác tự ti và khuynh hướng bù đắp trong tinh thần. Vô thức tập thể của xã hội cũng giống như vô thức cá nhân, vì dù các cá nhân có những đặc điểm tính cách khác nhau ra sao, thì bản năng bầy đàn – sự hòa hợp và cố kết của họ – cũng hợp nhất những nguyên liệu bị dồn nén này thành một thể. Do vậy xã hội, cũng giống như một cá nhân, phải chịu đựng các phản kháng, dồn nén của đám đông và các cơn biến đổi cảm xúc đột ngột. Do vậy, trị liệu cho xã hội có thể thực hiện theo gần như cùng một cách với trị liệu cá nhân. Từ đó, phân tâm học có thể phơi bày tính cách thực sự của xã hội, có thể vạch trần những động cơ bị che đậy, ngầm ẩn nằm sau những biểu hiện cảm xúc đa dạng của nó. Xã hội, cũng như cá nhân, có những giấc mơ của nó. Trong một cộng đồng nguyên thủy, những giấc mơ này có dạng các biểu tượng, hình xăm, thần thoại, văn hóa dân gian, và trong một thời đại vật chất hơn – có dạng các cộng đồng chung lí tưởng. Mọi nỗ lực bứt phá khỏi tình trạng hiện nay của xã hội thực ra là hành động hoàn thành các mong ước bị dồn nén của vô thức tập thể. Cũng giống như một giấc mơ thể hiện cho những mong ước bị dồn nén của vô thức cá nhân. Các vấn đề xã hội không thể được thấu hiểu hay giải quyết, trừ phi động lực của vô thức tập thể này được đưa ra ánh sáng. Và động lực chủ yếu thúc đẩy mọi hoạt động của con người chính là những mong ước đã bị dồn nén đó. Những mong ước không được thỏa mãn và bị nén vào bên trong chính là nguyên nhân thôi đẩy con người thực hiện một hành động cụ thể nào đó. TỔN THƯƠNG THỜI THƠ ẤU – HỆ QUẢ DÀI LÂU NỀN TẢNG CỦA PHÂN TÂM HỌC LÀ LÍ THUYẾT VỀ VÔ THỨC. TRỊ LIỆU PHÂN TÂM HỌC CÓ VAI TRÒ: 1. Giúp giải phóng các xung năng bị dồn nén và tránh cho con người khỏi các triệu chứng rối loạn thần kinh; 2. Điều chỉnh thái độ sai lầm của con người đối với thực tại; 3. Chuyển hướng các xung năng thôi thúc này sang các hoạt động hữu ích cho xã hội; 4. Hướng con người đến sự hài lòng và trưởng thành. Nhiệm vụ của phân tâm học là cảnh báo về sự dồn nén quá mạnh mẽ trong thời thơ ấu, khiến cho những xung năng thôi thúc của đứa trẻ trở thành các kênh dẫn đến những cạm bẫy của chứng rối loạn thần kinh. Các bản năng nên được kiểm soát chứ không phải bị nén lại. Và sự kiểm soát này nên biểu hiện trong các hành động thích ứng với hiện tại. Như Rank và Sachs đã nói20: 20 Otto Rank & Hans Sachs, The Significance of Psychoanalysis for Mental Sciences (Vai trò của phân tâm học đối với các môn khoa học tinh thần), 1915, Sđd. “Đứa trẻ nếu chỉ được giáo dục duy nhất bằng tình yêu, sẽ cảm thấy bị trừng phạt thích đáng khi tình yêu đó bị rút lại. Nhưng đối với người yêu dấu, nó sẵn lòng từ bỏ những thuộc tính và mục đích gây rắc rối. Nó bắt chước để giống như người ấy, bắt chước theo sự trau dồi tu dưỡng mà đối tượng yêu dấu kia đòi hỏi và kì vọng ở nó.” Trong một bài viết trước đây21, tôi có nói rằng: “Việc điều trị các chứng loạn thần kinh chức năng nên bắt đầu từ sớm, có tính phòng bệnh, có định hướng và miêu tả chính xác các xu hướng tâm - sinh lí và tình dục của con mình. Cách kiểm soát tốt nhất là điều hướng hoặc giúp cho những cảm xúc bị dồn nén này thăng hoa trong những môn nghệ thuật hay lĩnh vực trí tuệ cao hơn.” 21 Isador H. Coriat, “Psychoanalysis and Sexual Hygiene of Children” (Phân tâm học và vệ sinh tính dục của trẻ em), Tạp chí The Child, Số tháng 1-1912. Bác sĩ Oskar Pfister từ Zurish, Thụy Sĩ22 đã phát hiện một số lượng lớn các trẻ em ở độ tuổi đi học mắc các chứng rối loạn thần kinh có nguồn gốc là cảm xúc, chẳng hạn như nói lắp, nỗi sợ không lành mạnh, xấu hổ (đỏ mặt), ngại ngùng, ăn cắp vặt và nói dối. Cả những học sinh lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, mơ mộng hão huyền… Tất cả những chứng này có thể chữa lành bằng trị liệu phân tâm học. 22 Xem Dr. Oskar Pfister, The Psychoanalytic Method (Phương pháp phân tâm học), 1913. Các trích dẫn trong sách được lấy từ bản dịch của bác sĩ Charles Rockwell Payne. Ví dụ như: Một cậu trai đến xin lời khuyên vì không thể học hành và tập trung. Đây là một phàn nàn thường xuyên trong độ tuổi dậy thì và mới lớn. Cuộc trị liệu phân tâm cho thấy cậu mắc một chứng bệnh mơ- ngày rất nghiêm trọng. Đó là một kiểu rút khỏi thực tại, thích chìm trong những mơ mộng hão huyền ban ngày của mình hơn là việc cố gắng học hành có tính thực tế. Một khuynh hướng cá nhân như thế chứa đầy nguy cơ phát triển thành một chứng rối loạn thần kinh chức năng nghiêm trọng, hay thậm chí một chứng rối loạn tâm thần. Cậu bé nên được trị liệu phân tâm chứ không phải chạy theo mấy lời khuyên “rèn luyện sự tập trung” thông thường. Trong ca này, khả năng tập trung không hề có khiếm khuyết, vấn đề nằm ở chỗ bệnh nhân trôi vào một tình trạng mơ giữa ban ngày một cách bất thường, vì thực tại cuộc sống không làm cậu thích thú nữa. Thầy cô giáo trong trường cũng nên biết các nguyên tắc phân tâm nhất định nhằm thấu hiểu hơn những đứa trẻ kì quặc hoặc bất bình thường và giới thiệu trẻ đến những nguồn trị liệu đúng đắn. Không nên đánh giá, phán xét và dán nhãn “cứng đầu”, “lơ đễnh” cho những đứa trẻ, vì động lực thôi đẩy chúng bộc lộ một phản ứng như thế thường nằm sâu bên trong nhân cách của chúng – chính chúng cũng không hiểu được mình. Bằng kiến thức phân tâm, họ có thể nuôi dưỡng một lòng khoan dung lớn lao trước sự phức tạp, rắc rối trong tính cách của trẻ, hiểu cho những sở thích sở ghét, cũng như các phản ứng hiếu kì trước các tình huống người lớn của chúng. Để lấy ví dụ về việc bố mẹ không đối đãi với con đúng cách có thể gây hại ra sao, chúng tôi xin nhắc đến trường hợp của một bé trai 10 tuổi: Mẹ cậu bé để cho cậu kiểu tóc dài, tóc kẹp kiểu Hà Lan giống một đứa bé gái. Đứa trẻ này là con út trong số bốn người con toàn là trai. Sự thất vọng của người mẹ khi không có con gái đã tìm thấy một lối xả thoát bằng cách “tạo hình” đứa con trai út của mình trông giống như con gái nhất có thể. Tình huống này chứa đầy những nguy hiểm và nguy cơ. Trong đứa bé trai kia không chỉ nảy sinh cảm giác mặc cảm tự ti, mà nó còn phải chịu đựng sự giễu cợt từ bạn bè đồng trang lứa, và do vậy có xu hướng ngày càng trở nên kém hòa đồng. Sự phát triển của một thái độ tinh thần như vậy: nhạy cảm (dễ bị ảnh hưởng) và trở thành kiểu người khép kín – cùng với các hệ quả của tính cách đó – sẽ thiết đặt nền tảng cho một chứng rối loạn thần kinh chức năng nghiêm trọng trong giai đoạn thanh thiếu niên, khi mà cá nhân cảm thấy cần trở thành một con người hòa đồng với xã hội nhưng lực bất tòng tâm. Bác sĩ Pfister cũng nói như sau: “Cha mẹ phải chú ý để không khơi gợi cảm giác mặc cảm, tự ti nào ở trẻ. Để đứa con có thể có một mối liên hệ bình thường với cha mẹ, cả hai phải hòa hợp với nhau. Khi chúng ta càng nhìn thấu suốt chúng, chúng lại càng trở nên thú vị với chúng ta. Chính chúng cũng nhận ra rằng, cha mẹ thấu hiểu chúng sâu sắc đến nhường nào, thì sức ảnh hưởng của họ đối với chúng cũng to lớn nhường đó. Rồi chúng sẽ không còn cố chạy trốn khỏi một mệnh lệnh cần thiết và đúng đắn với những lí do rất “bề mặt” như bị đau đầu (sinh ra trong vô thức), hay những nỗi đau khác (cũng được tạo ra từ vô thức) để có được sự thông cảm của cha mẹ. Tất nhiên chúng cũng không biến mình thành nạn nhân và đổ lỗi cho công việc, học hành quá tải khi chúng đang lười biếng.” Sau cùng, để cho thấy trẻ em nhạy cảm ra sao, có thể kể trường hợp của một bé gái 11 tuổi. Cô bé đột nhiên kể với hàng xóm rằng ở nhà cô bị đối xử tồi tệ, rồi vài ngày sau đó cô bé bỏ đi đến quá nửa đêm. Một cuộc phân tâm ngắn cho thấy, câu chuyện của cô bé về việc bị đối xử tồi tệ ở nhà g y yệ ệ ị ệ đơn thuần chỉ là bịa ra. Cô bé kể câu chuyện ấy rồi bỏ đi sau đó là vì cô bé phải “nhường” phòng cho đứa em gái nhỏ. Việc phải nhường phòng làm dấy lên tâm lí ghen tị trong đứa trẻ. Vì không thể nói ra nên cảm xúc bị dồn nén ấy trở thành một xung năng thôi thúc đột ngột, câu chuyện bịa đặt về việc bị đối xử tồi tệ chỉ là bộc phát của dồn nén, nhằm củng cố cho thái độ của cô bé mà thôi. Khác biệt cá nhân giữa những đứa trẻ rất rõ rệt và vô vàn. Vì lí do này, cư xử kì quặc của đứa trẻ không bao giờ có thể đo lường được bằng bất kì cái gọi là bài kiểm tra trí tuệ nào. Việc thất bại trong một bài kiểm tra nào đó không có nghĩa là đứa trẻ đó mắc bất kì khiếm khuyết trí tuệ nào, mà có thể là do một tắc nghẽn cảm xúc – có nguồn gốc từ vô thức. Tình trạng vị thành viên và sự biến đổi tuổi dậy thì do vậy được Freud23 phát biểu: 23 Sigmund Freud, Three Contributions to the Sexual Theory (Ba bài viết về lí thuyết tính dục), 1905. “... một trong những sự kiện tinh thần quan trọng nhất và cũng đau khổ nhất của tuổi dậy thì đó là: thoát khỏi uy quyền cha mẹ (…) Nhiều người bị “cầm chân” ở từng trạm trên hành trình phát triển và trưởng thành mà cá nhân bắt buộc phải đi qua. Có những người không bao giờ vượt qua được uy quyền của cha mẹ, và do đó không bao giờ – hoặc theo một cách rất sai lệch – cân bằng được tình cảm “quyến luyến” ấu thơ của họ dành cho cha mẹ mình. Họ phần lớn là con gái, vì để cha mẹ vui lòng mà giữ lại trọn vẹn tình yêu thơ ấu đến tận lúc lớn.” Theo thuật ngữ phân tâm học, tình trạng vừa được đề cập có thể được nói rõ như sau: Từ lúc ban đầu của thời thơ ấu, bắt đầu vào khoảng 3-5 tuổi, những đứa trẻ cho thấy sự lựa chọn hấp tấp và tình cảm đặc biệt đối với những người lớn, đặc biệt là trong gia đình, chẳng hạn như cha mẹ hay bảo mẫu. Đây là cái gọi là lãng mạn gia đình (family romance)24 và sự phát triển này trong đơn vị gia đình có tầm quan trọng lớn đối với những ấn tượng in dấu trong đầu óc mềm yếu của trẻ. Những ấn tượng này dần dần bị nén xuống, đẩy từ ý thức hoặc vùng tiền tâm trí vào vô thức hoặc vùng hậu tâm trí. Cách xử lí những ấn tượng này rất quan trọng cho cuộc sống về sau này của một cá nhân: Liệu những ấn tượng đó có được điều hướng thành công và cá nhân kia vẫn lành mạnh? Hay cá nhân trở nên bất lực bởi những ấn tượng này và có khả năng trở thành bệnh nhân rối loạn thần kinh? 24 Theo Sigmund Freud, đây là kết quả của phức cảm Oedipus. Đó là một dạng tưởng tượng, trong đó đứa trẻ tin rằng nó không phải là con thực sự của bố mẹ mình, mà là con của bố mẹ thuộc tầng lớp xã hội cao hơn như hoàng gia, quý tộc. Do vậy trong đời mỗi người, sẽ có một lần phải đưa ra quyết định lớn: Sẽ giữ lại hay không giữ lại cảm xúc mê đắm của mình với gia đình? Hay sẽ bứt khỏi sợi dây neo thơ ấu, phát triển về trí tuệ và cảm xúc, gạt sang một bên tuổi thơ của mình và đi thẳng vào thế giới thực tại? Thường đứa con một (đứa duy nhất) sẽ có nhiều khả năng giữ lại mối nặng lòng thời thơ ấu với gia đình. Bước vào giai đoạn quan trọng của tuổi dậy thì và vị thành niên, “đứa con một” trở nên yếu nhược do cuộc vật lộn chiến đấu để bứt ra khỏi gia đình, và biểu hiện thành những triệu chứng mà ta gọi là “suy nhược thần kinh” – người lớn vẫn sai lầm quy cho là học hành quá tải. Trong khi thực tế, suy nhược này là do mâu thuẫn nội tại giữa nỗ lực tiếp xúc với thế giới trưởng thành ngoài kia và việc bứt ra khỏi sợi dây neo thơ ấu. Chính mâu thuẫn này, thăng trầm này của cuộc đời – quả lắc đu đưa giữa thời thơ ấu và trưởng thành, mang theo cùng nó là sự gia tăng những dồn nén mới – thường xuyên dẫn những cô bé vị thành niên đến chứng rối loạn thần kinh chức năng được biết đến với tên là Chứng cuồng loạn (Hysteria). Những bé trai rất có thể mắc phải các chứng rối loạn kiểu cuồng loạn trong giai đoạn quan trọng này, nhưng với mức độ thấp hơn bé gái rất nhiều. Vì ở bé gái có nhiều dồn nén hơn và thay đổi tâm - sinh lí lớn hơn trong lịch sử đời sống của cá nhân. Trong tuổi dậy thì và vị thành niên, các khuynh hướng tính dục bản năng của con gái cũng cố tìm một đối tượng ngoài gia đình để gắn chặt mình vào. Điều đó lí giải cho lòng khao khát tình yêu mạnh mẽ và những cơn say nắng tuổi vị thành niên mà ta thường bắt gặp. Cái gọi là “say nắng” của các chàng trai cô gái vị thành niên thông thường là một hiện tượng tạm thời và thường xuyên đến nỗi chúng có thể vượt qua như một giai đoạn phát triển bình thường. Tuy nhiên ở người lớn, khuynh hướng này dưới dạng thăng hoa trong cuộc sống, trong sự tiến triển mối quan hệ bạn bè, trợ giúp xã hội và hỗ trợ người khác… không hề được đánh giá cao và không được khuyến khích. TÓM TẮT CHƯƠNG I Dồn nén cảm xúc là một cơ chế phòng vệ cho tinh thần, đã tồn tại cùng cá nhân từ khi còn bé đến lúc trưởng thành. Cơ chế phòng vệ này không chỉ bảo vệ cá nhân trước các suy nghĩ đau khổ, mà còn giữ cho xã hội không trở nên hỗn loạn vì nó tạo nên các rào cản. Nhưng nếu cơ chế phòng vệ này thất bại, sẽ dẫn đến các chứng rối loạn thần kinh. Để phân tích và hiểu được con người, ta phải nắm rõ thuyết cơ chế dồn nén – vốn là nền tảng cho hệ tư tưởng của Freud về đầu óc con người. Những cảm xúc bị dồn nén này được đẩy vào các tầng sâu vô thức – đó là kho chứa các bản năng nguyên sơ của con người. Những cảm xúc bị dồn nén không thể được xả thoát bằng cách trốn chạy khỏi thực tại, bằng cách viện đến các phương tiện giải trí như sân khấu, phim ảnh hay thuốc gây mê... Các chứng rối loạn thần kinh – ở một khía cạnh nào đó – cũng được xem là một cơ chế bảo vệ của tâm trí trước những dồn nén không thể nào chịu đựng nổi. Có thể gọi đó là đau khổ đến phát điên – theo nghĩa đen. Những cảm xúc bị dồn nén có những cách xả thoát nguyên thủy qua giấc mơ, biểu tượng, thần thoại và những cách xả thoát lành mạnh qua hoạt động nghệ thuật. Những cảm xúc bị dồn nén từ thời thơ ấu có thể gây ra sự tổn thương cực kì lớn ở đứa trẻ, đó là mầm mống của những chứng rối loạn thần kinh chức năng sau này. Cha mẹ và nhà trường có vai trò rất lớn trong việc giúp những đứa trẻ có thể phát triển lành mạnh, hay góp phần khiến chúng trở thành nạn nhân của những cảm xúc bị dồn nén và tổn thương tinh thần. Trong quá trình trị liệu, luôn xuất hiện một cơ chế phản kháng nội tại, ngăn cản những yếu tố bị dồn nén từ vô thức tiến nhập vào ý thức. Nhiệm vụ của nhà phân tâm học là vượt qua những rào cản tâm lí này để đi sâu vào các tầng vô thức của con người bằng một thái độ thấu hiểu, thay vì phán xét. Chương II NHỮNG CẢM XÚC BỊ DỒN NÉN TRONG XÃ HỘI NGUYÊN THỦY V ô thức không chỉ khởi nguồn từ thuở thơ ấu của con người, mà còn có thể nói là có nguồn gốc từ thời thơ ấu của thế gian. Nếu có thể thấu suốt tâm trí và những động lực của con người từ thưở ban sơ, chúng ta cũng có thể làm sáng tỏ hệ biểu tượng vô thức ở dạng thô sơ nhất và các giai đoạn phát triển ban đầu của chúng. Cấu trúc phức tạp của chứng rối loạn thần kinh chức năng ở người lớn là do chịu ảnh hưởng từ vô số các yếu tố của nền văn minh và các bước tiến xã hội. Ở trẻ em, cấu trúc của chứng rối loạn thần kinh chức năng thường rất đơn giản, gần như đơn chứng (có một triệu chứng). Khi lớn lên, cá nhân phải bỏ lại phía sau mọi yếu tố cuộc sống thơ ấu của mình cùng mọi trải nghiệm và khao khát bị dồn nén, để tạo ra những tính cách trưởng thành của anh ta. Tuy nhiên, đối với người trưởng thành ở các bộ tộc nguyên thủy, cơ chế tinh thần của họ đơn giản hơn rất nhiều so với người văn minh, song vẫn phát hiện được các rối loạn thần kinh chức năng nhất định. Nếu phân tích chúng, chúng ta có thể thấy rõ cơ chế tinh thần của những rối loạn này qua những thuật ngữ đơn giản nhất. NHỮNG CƠN ĐIÊN BỘC PHÁT Tôi rất may mắn khi có được một số dữ liệu của nhà thám hiểm nổi tiếng Charles Wellington Furlong25 về những cảm xúc bị dồn nén, về các triệu chứng thần kinh kì lạ xảy ra trong các tộc nguyên thủy Fuegian Archipelago. 25 Nhà thám hiểm nổi tiếng Charles Wellington Furlong vào năm 1907-1908 đã phụ trách cuộc thám hiểm khoa học đầu tiên xuyên qua tâm Tiera del Fuego. Tierra del Fuego (Đất Lửa) là một quần đảo nằm ở cực nam của Nam Mĩ, dọc theo eo biển Magellan. Quần đảo này gồm một đảo chính, Isla Grande de Tier- ra del Fuego và nhiều nhóm đảo khác như Cape Horn và Diego Ramírez. Tierra del Fuego được phân chia giữa Chile và Argentina; Argentina kiểm soát phần mạn đông, còn Chile có nửa tây cùng những hòn đảo nằm ở phía nam eo biển Beagle. Điểm cực nam của quần đảo nằm ở khoảng 55 vĩ độ Nam. Charles W. Furlong không có bất kì lí thuyết nào để giải thích cho những cơn thần kinh mà ông nhìn thấy trong các bộ lạc nguyên thủy, nhưng khả năng quan sát sắc bén của ông đã làm cho dữ liệu này trở nên trọn vẹn. Điều rất thú vị là: Một vài trong số những dữ kiện thực tế này chứng thực và củng cố cho những tư tưởng nổi tiếng của Freud về tính dục bị dồn nén. Cấu trúc tinh thần của những người này cũng có thể trở thành minh chứng cho một số quan niệm phân tâm học. Thêm vào đó, những dữ liệu về địa lí và nhân loại học cũng giúp hiểu rõ hơn những cơn bộc phát thần kinh này. Dữ liệu này do Furlong thu thập được vào năm 1907 và 1908 qua cuộc thám hiểm xuyên qua các vùng miền của chủng người Fuegian Archipelago. Nó cho thấy tình trạng mất kiểm soát hay những cơn thần kinh bộc phát của người bộ tộc Yahgan và Ona26. 26 Người Yahgan là tộc người da đỏ “bơi xuồng”, chừng bốn mươi năm trước có khoảng 2.500 người. Vào năm 1908, con số này đã giảm xuống còn 173 người vì tiếp xúc với nền văn minh và chủ yếu là vì một nạn dịch sởi. Ngày nay (thời điểm cuộc thám hiểm diễn ra), họ sinh sống trên các bờ biển đảo từ Đảo Beale đến hết Wollastons, trong khu dân cư của Cape Horn, từ khoảng 54,50’ đến 55,56’ vĩ độ Nam, là những cư dân sống gần phía Nam nhất thế giới. Những người Ona có cơ thể cao hơn và khỏe hơn, họ là dân da đỏ “đi bộ”, chiếm cứ vùng núi rừng miền Nam Tierra del Fuego từ khoảng 53,50’ đến 55,3’ vĩ độ Nam. Người Ona trước đây chiếm đóng toàn bộ nửa Bắc của Tierra del Fuego và số lượng lên đến khoảng 3000 người. Nhưng do tiếp xúc và xung đột dữ dội với người da trắng, họ bị đánh đuổi khỏi những miền đất mở ở phía Bắc, bị đẩy về phía Nam và giảm xuống còn khoảng 300. Những người này có màu da nâu vàng sáng, tóc đen và một phong cách Mĩ da đỏ rõ rệt. Người Ona có vóc người trên trung bình, người Yahgan dưới trung bình. Việc những người trong tộc Yahgan và Ona hay bộc phát cơn giận dữ và bạo lực không phải là chuyện hiếm. Đã thành thông lệ: Sẽ có người đi theo sát ngay đằng sau để bảo đảm người đó không bị thương, sẩy chân, hay ngã xuống vách đá. Họ chỉ đụng vào người bị bệnh khi cần ngăn chặn tổn hại, sau đó sẽ dẫn anh ta về lại trại khi cơn bộc phát qua đi, khi người bệnh đã kiệt sức. Những cơn điên như thế thường bộc phát nhiều hơn ở đàn ông trong tộc, nhất là những thanh niên khoảng 25-35 tuổi (tất nhiên có cả ở đàn bà). Bởi phong tục đàn ông già cưới nhiều vợ trẻ, rồi bỏ người phụ nữ già nua cho người đàn ông trẻ hơn đã gây nên tình trạng khan hiếm phụ nữ trong tộc. Triệu chứng thường thấy của những cơn bộc phát này thường là điên cuồng chạy đi – như trên mô tả, gây thương tích hoặc giết hại. Chẳng hạn, một chủ trại gia súc ở Tierra del Fuego suýt bị một chiếc rìu từ đâu đến bay vào đầu, may mắn là nó chỉ sượt qua và cắm vào một khúc gỗ làm chòi. Hóa ra đấy là cơn điên bộc phát của một anh chàng bản địa mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên Furlong không thể cung cấp bất cứ dữ liệu xác thực nào về những hành vi khác trong lúc cơn điên bộc phát như: khóc, cười, kêu la, gào thét, cắn lưỡi, sủi bọt mép, hay xé quần áo… Những cơn bộc phát như thế thường xảy ra đột ngột, nhưng tình trạng ủ bệnh có lẽ kéo dài đã lâu – đó chính là giai đoạn báo trước cho cơn bộc phát này27. Thường người ta không biết khi nào thì cơn bộc phát kéo đến. Song cũng có trường hợp một người nhận ra sự biến đổi của mình, thấy cơn bộc phát này đang được ấp ủ và giơ tay cầu xin bị trói lại để không gây hại cho chính mình hoặc người khác. Chứng tỏ rằng không có chuyện người bệnh quên sạch sẽ khi lên cơn điên. Anh chàng da đỏ kia chắc chắn nhớ được mình đã làm gì trong những lần lên cơn trước đó. Và anh ta nhận ra những dấu hiệu – dạng một cảm giác khó chịu – như là triệu chứng báo trước của cơn phát tác28. 27 Một đoạn trong bản gốc kể về trải nghiệm cá nhân của Furlong đã được lược đi. 28 Từ lời mô tả của nhà thám hiểm Donald McMillan, bệnh Eskimo có tên là Piblokto rất giống với những cơn điên của người da đỏ Ona và Yahgan, ngoại trừ một điều: bệnh Piblokto đặc biệt phổ biến ở phụ nữ. Xem thêm A. Brill, “Piblikto or Hysteria among Peary’s Eskimo” (Piblokto hay chứng cuồng loạn của người Eskimo của Peary), Journal of Nervous and Mental Disease (Tập san Bệnh thần kinh và tinh thần), 1913. Chẳng hạn một người Ona thuộc đoàn thám hiểm của Furlong, đôi khi nhận thấy rõ ràng có một cơn bộc phát đang phát triển, với những dấu hiệu như suy nghĩ ủ ê, tâm trạng buồn rầu, u sầu. Họ đã chịu đựng trạng thái căng thẳng từ rất lâu trước đó. Song người Ona vốn không phải là những người hay gây gổ. Có lẽ vì vậy khi nhận ra và linh tính về cơn điên này, họ thường chạy xa khỏi mọi người để tránh việc tấn công hay gây thương tích cho những người xung quanh họ29. 29 Cơn điên cuối cùng kết thúc trong tình trạng người bệnh kiệt sức và đi vào giấc ngủ. Sau khi tỉnh dậy và hồi phục năng lượng, họ quay trở lại trạng thái bình thường. Trường hợp người đàn ông xin bị trói cũng cho thấy rằng: Người Ona và Yahgan chắn hẳn đã ý thức được về sự phản kháng mang tính bạo lực của người bệnh, thế nên họ không quấy rầy người bệnh, trừ phi họ gây hại cho bản thân. Thường người xung quanh chỉ đợi đến khi cơn bùng nổ làm người bệnh kiệt sức và đi vào giấc ngủ. GIẤC MƠ VÀ HỆ THỐNG CẤM KỊ (TABOO) “Liệu người bản địa có giải thích cơn điên kia là do một linh hồn quỷ dữ hay không – tôi không thể nói chắc chắn. Khi có ai đó ốm bệnh, họ thường tin rằng có gì đó đã tiến nhập vào người bệnh, hoặc ai đó đã lén lút bỏ bùa ngải (đưa một số động vật nhỏ hay mũi tên) vào anh ta. Yuccamoosh (bác sĩ) hay pháp sư của người Yahgan rút những thứ đó ra dưới hình thức ôm siết bệnh nhân, cùng lúc đó thổi, huýt gió, v.v để tống thứ ma quỷ đó ra. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ thấy họ làm thế với người bệnh đang lên cơn điên. (…) Tôi cũng không thể cung cấp bất kì dữ liệu nào về mối liên hệ giữa tình yêu, tính dục, cái đói, cái chết với một cơn tâm thần. Khi một người họ hàng chết, người Yahgan niệ