Giáo trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh Tập 1 PDF

Document Details

Uploaded by Deleted User

Nguyễn Mạnh Hƣởng, Trần Đăng Thanh, Đào Huy Hiệp, Đỗ Xuân Tảo, Vũ Quang Tạo, Nguyễn Trọng Xuân, Lƣu Ngọc Khải, Nguyễn Từ Vƣợng, Hoàng Khắc Thông, Lê Đại Nghĩa, Lê Doãn Thuật, Nguyễn Hoàng Minh, Tạ Ngọc Vãng

Tags

national defense military science Vietnamese education security

Summary

This is a textbook on national defense and security education for university and college students. It covers various aspects of military policy and strategy, alongside basic military skills. The textbook is intended for use in Vietnamese educational institutions.

Full Transcript

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO _____________________________________________ GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG - AN NINH DÙNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TẬP MỘT NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO...

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO _____________________________________________ GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG - AN NINH DÙNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TẬP MỘT NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO __________________________________________ Nguyễn Mạnh Hƣởng, Trần Đăng Thanh, Đào Huy Hiệp, Đỗ Xuân Tảo, Vũ Quang Tạo, Nguyễn Trọng Xuân, Lƣu Ngọc Khải, Nguyễn Từ Vƣợng, Hoàng Khắc Thông, Lê Đại Nghĩa, Lê Doãn Thuật, Nguyễn Hoàng Minh, Tạ Ngọc Vãng Chịu trách nhiệm về nội dung Vụ Giáo dục Quốc phòng - Bộ Giáo dục và Đào tạo Biên tập nội dung Phạm Vĩnh Thông, Lê Doãn Thuật 2 LỜI NÓI ĐẦU Giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Qua đó tạo điều kiện cho thế hệ trẻ có điều kiện tu dƣỡng phẩm chất đạo đức và rèn luyện năng lực thực tế để sẵn sàng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lƣợc : xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Môn học Giáo dục quốc phòng - an ninh đã đƣợc xác định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc và gần đây nhất Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03-5-2007 về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Chính phủ cũng có Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10- 7-2007 về Giáo dục quốc phòng - an ninh. Quán triệt chủ trƣởng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về công tác giáo dục quốc phòng, an ninh nhằm đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của mục tiêu giáo dục và thực tiễn, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an nghiên cứu, biên soạn bộ sách Giáo trình Giáo dục quốc phòng - an ninh dùng cho sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng gồm hai tập. Bộ sách này đã đƣợc Hội đồng thẩm định liên Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Quốc phòng - Bộ Công an nghiệm thu. Nội dung sách đã cập nhật đƣợc những vấn đề mới, phù hợp với chƣơng trình mới ban hành, Quyết định số 81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24-12-2007 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức xuất bản và giới thiệu bộ sách Giáo trình Giáo dục quốc phòng - an ninh với bạn đọc. Hi vọng bộ sách này sẽ giúp ích đƣợc nhiều cho giảng viên, sinh viên và nhà trƣờng trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh toàn dân. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song khó tránh khỏi những sơ suất nhất định. Chúng tôi mong nhận đƣợc nhiều ý kiến đóng góp của các đồng chí giảng viên, cán bộ chỉ đạo để bộ sách ngày càng hoàn thiện. Các ý kiến đóng góp xin gửi về Nhà xuất bản Giáo dục 81 trần Hƣng Đạo, Hà Nội. Xin chân thành cảm ơn. NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC 3 Bài 1 ĐỐI TƢỢNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG - AN NINH I/ MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU - Nắm vững đối tƣợng, phƣơng pháp, nội dung nghiên cứu môn học Giáo dục quốc phòng - an ninh (GDQP-AN), góp phần bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực trung thành với lí tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Sinh viên xác định trách nhiệm, thái độ đúng trong học tập môn học GDQP-AN, tích cực tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngay khi đang học tập, rèn luyện trong nhà trƣờng và ở mỗi vị trí công tác tiếp theo. II - ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Đối tƣợng nghiên cứu của môn học bao gồm đƣờng lối quân sự của Đảng, công tác quốc phòng, an ninh, quân sự và kĩ năng quân sự cần thiết. 1. Nghiên cứu về đƣờng lối quân sự của Đảng Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính chất lí luận của Đảng về đƣờng lối quân sự, bao gồm: những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc ; quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, an ninh nhân dân ; về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng củng cố quốc phòng, an ninh và một số nội dung cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời kì. Học thuyết Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận để Đảng ta đề ra chủ trƣơng, đƣờng lối chiến lƣợc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, hải đảo mà còn phải bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền văn hóa của dân tộc. Các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh nhân dân đều có tính kế thừa và phát triển những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc ”cả nƣớc một lòng chung sức đánh giặc”, ”lấy ít địch nhiều”, ”lấy nhỏ chống lớn”. Đó cũng chính là đặc trƣng nghệ thuật quân sự Việt Nam đã chiến thắng các kẻ thù hung hãn nhất. Nghiên cứu đƣờng lối quân sự của Đảng góp phần hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và lí tƣởng cho sinh viên. 2. Nghiên cứu về công tác quốc phòng, an ninh Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nhiệm vụ, nội dung công tác quốc phòng, an ninh của Đảng hiện nay, bao gồm: xây dựng lực lƣợng dân quân tự vệ, lực lƣợng dự bị động viên, tăng cƣờng tiềm lực cơ sở vật chất, kĩ thuật quốc phòng, phòng chống chiến tranh công nghệ cao, đánh bại chiến lƣợc ”diễn biến 4 hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam ; một số vấn đề về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam ; xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo, an ninh quốc gia ; đấu tranh phòng chống tội phạm và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Nhà nƣớc quy định nhiệm vụ về quốc phòng, quân sự, an ninh cho các bộ, ngành, cơ quan Trung ƣơng, địa phƣơng và đơn vị cơ sở. Do vậy, nghiên cứu về công tác quốc phòng, an ninh thực chất là nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc về bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và an ninh chính trị. Mọi công dân, trong đó có đội ngũ trí thức trẻ đều có trách nhiệm tham gia công tác quốc phòng, luyện tập quân sự, giữ gìn bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tăng cƣờng tiềm lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân phòng, chống có hiệu quả chiến lƣợc ”diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam, kể cả việc phòng, chống chiến tranh công nghệ cao trong tƣơng lai. Nghiên cứu và thực hiện tốt công tác quốc phòng, an ninh để xây dựng lòng tin chiến thắng trƣớc mọi âm mƣu, thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. 3. Nghiên cứu về quân sự và kĩ năng quân sự cần thiết Nghiên cứu các kiến thức, kĩ năng chiến thuật, kĩ thuật quân sự cần thiết nhƣ : những kiến thức cơ bản về bản đồ, địa hình quân sự, các phƣơng tiện chỉ huy chiến thuật và chiến đấu ; tính năng, tác dụng, cấu tạo, sử dụng, bảo quản các loại vũ khí bộ binh AK, CKC, RPD, RPK, B40, B41 ; tính năng, kĩ thuật sử dụng thuốc nổ ; phòng chống vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học, vũ khí lửa ; vết thƣơng chiến tranh và phƣơng pháp xử lí ; một số vấn đề về điều lệnh đội ngũ và chiến thuật chiến đấu bộ binh. Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên cần quan tâm nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng... hiểu rõ bản chất các nội dung kĩ thuật, chiến thuật bộ binh ; về khả năng sát thƣơng, với các phƣơng pháp phòng tránh đơn giản, hiệu quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu thực hành các bài tập sát với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ thuật, chiến thuật trong chiến đấu. Đồng thời có thể ứng dụng các kĩ thuật này khi tham gia dân quân, tự vệ theo quy định của Pháp luật. III – PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Việc nghiên cứu môn học GDQP-AN đòi hỏi phải nắm vững cơ sở phƣơng pháp luận, các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối tƣợng, phạm vi và tính chất đa dạng của nội dung môn học này. 1- Cơ sở phƣơng pháp luận Cơ sở phƣơng pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu GDQP-AN là học thuyết Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trong đó những quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lê nin và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội, về xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân... là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu, 5 vận dụng đƣờng lối quân sự của Đảng và những vấn đề cơ bản khác của GDQP- AN. Việc xác định học thuyết Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là cơ sở phƣơng pháp luận, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, phát triển GDQP-AN phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các quan điểm tiếp cận khoa học sau đây: - Quan điểm hệ thống : đặt ra yêu cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung của GDQP-AN một cách toàn diện, tổng thể, trong mối quan hệ phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn học. - Quan điểm lịch sử, logic : trong nghiên cứu GDQP-AN đòi hỏi phải nhìn thấy sự phát triển của đối tƣợng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian, không gian với những điều kiện lịch sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát, nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc của hoạt động quốc phòng, an ninh. - Quan điểm thực tiễn : chỉ ra phƣơng hƣớng cho việc nghiên cứu GDQP- AN là phải bám sát thực tiễn xây dựng quân đội và công an nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. 2- Các phƣơng pháp nghiên cứu Với tƣ cách là bộ môn khoa học nằm trong hệ thống khoa học quân sự, phạm vi nghiên cứu của GDQP-AN rất rộng, nội dung nghiên cứu đa dạng, đƣợc cấu trúc theo hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp luôn có sự kế thừa và phát triển. Vì vậy GDQP-AN đƣợc tiếp cận nghiên cứu với nhiều cách thức, phù hợp với tính chất của từng nội dung và vấn đề nghiên cứụ cụ thể. Trong nghiên cứu xây dựng, phát triển nội dung GDQP-AN với tư cách là một bộ môn khoa học cần chú ý sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học. Trƣớc hết cần chú ý sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí thuyết nhƣ phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa, mô hình hóa, giả thuyết... nhằm thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu về quốc phòng, an ninh để rút ra các kết luận khoa học cần thiết, không ngừng bổ sung, phát triển làm phong phú nội dung GDQP-AN. Cùng với các phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết, cần nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhƣ quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu các sản phẩm quốc phòng, an ninh, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm, thực nghiệm... nhằm tác động trực tiếp vào đối tƣợng trong thực tiễn, từ đó khái quát bản chất, quy luật của các hoạt động quốc phòng, an ninh ; bổ sung làm phong phú nội dung cũng nhƣ kiểm định tính xác thực, tính đúng đắn của các kiến thức GDQP-AN. Trong nghiên cứu lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng quốc phòng, an ninh cần sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học lí thuyết và thực hành nhằm bảo đảm cho ngƣời học vừa có nhận thức sâu sắc về đƣờng lối, nghệ thuật quân sự, nắm chắc lí thuyết kĩ thuật và chiến thuật, vừa rèn luyện phát triển đƣợc các kĩ năng công tác quốc phòng, thuần thục các thao tác, hành động quân sự. Đổi mới phƣơng pháp dạy học GDQP-AN theo hƣớng tăng cƣờng vận dụng các phƣơng pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử dụng các phƣơng tiện kĩ thuật dạy học hiện đại. Trong quá trình học tập, nghiên cứu các vấn đề, các nội 6 dung GDQP-AN cần chú ý sử dụng các phƣơng pháp tạo tình huống, nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận sáng tạo ; tăng cƣờng thực hành, thực tập sát với thực tế chiến đấu, công tác quốc phòng ; tăng cƣờng tham quan thực tế, viết thu hoạch, tiểu luận ; tăng cƣờng sử dụng các phƣơng tiện kĩ thuật, thiết bị quân sự hiện đại phục vụ các nội dung học tập ; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lƣợng học tập, nghiên cứu môn học GDQP-AN. IV- GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG - AN NINH 1. Đặc điểm môn học Là môn học đƣợc Luật định, thể hiện rõ đƣờng lối giáo dục của Đảng đƣợc thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc, nhằm giúp sinh viên thực hiện mục tiêu ”hình thành và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.(1) Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện Chƣơng trình Huấn luyện quân sự phổ thông (1961), Giáo dục quốc phòng (1991), trong những năm qua, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp với quy chế giáo dục - đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chƣơng trình tiếp tục đƣợc sửa đổi, bổ sung ; đến năm 2007 triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về GDQP-AN, môn học Giáo dục quốc phòng đƣợc lồng ghép nội dung an ninh thành môn học GDQP-AN. Nhƣ vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, chƣơng trình môn học GDQP-AN đều có những đổi mới phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nƣớc và công tác quốc phòng, an ninh trong từng thời kì, gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục - đào tạo với quốc phòng - an ninh. Giáo dục quốc phòng - an ninh là môn học bao gồm kiến thức khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật quân sự và thuộc nhóm các môn học chung, có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 70% chƣơng trình môn học. Nội dung bao gồm kiến thức cơ bản về đƣờng lối quốc phòng, quân sự của Đảng, công tác quản lí Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh ; về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, về nghệ thuật quân sự Việt Nam ; về chiến lƣợc "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam và kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giáo dục quốc phòng - an ninh góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong khoa học ngay khi sinh viên đang học tập trong nhà trƣờng và khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có chất lƣợng môn học GDQP- AN là góp phần đào tạo cho đất nƣớc một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực hiện nhiệm vụ chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi cƣơng vị công tác. __________________ (1) Luật Giáo dục, 2005. 7 2. Chƣơng trình Môn học GDQP-AN trình độ đại học, cao đẳng ban hành theo Quyết định số: 81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chƣơng trình đƣợc xây dựng trên cơ sở phát triển trình độ các cấp học dƣới, bảo đảm liên thông, logic ; mỗi học phần là những khối kiến thức tƣơng đối độc lập, tiện cho sinh viên tích luỹ trong quá trình học tập. Kết cấu chƣơng trình gồm ba phần chính: Phần 1: Mục tiêu, thời gian, thời điểm thực hiện. Phần 2: Tóm tắt nội dung các học phần và chƣơng trình. Học phần I: Đƣờng lối quân sự của Đảng, 45 tiết. Học phần II: Công tác quốc phòng, an ninh, 45 tiết. Học phần III: Quân sự chung, 45 tiết. Học phần IV: Chiến thuật và kĩ thuật bắn súng tiểu liên AK, 30 tiết. Sinh viên đại học học 4 học phần, 165 tiết ; sinh viên cao đẳng học 3 học phần (I,II,III), 135 tiết. Phần 3: Tổ chức thực hiện chƣơng trình ; phƣơng pháp dạy, học và đánh giá kết quả học tập. 3. Đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất thiết bị dạy học Đội ngũ giảng viên GDQP-AN các trƣờng đại học, cao đẳng, các Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên đƣợc tổ chức trên cơ sở Nghị định của Chính phủ về GDQP-AN và Nghị định của Chính phủ về biệt phái sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Giảng viên sĩ quan từ các Quân khu, các học viện, nhà trƣờng Quân đội đƣợc đƣợc luân phiên làm công tác quản lý và giảng dạy. Các trƣờng chƣa có giảng viên sĩ quan biệt phái đƣợc biên chế giảng viên cơ hữu hoặc hợp đồng, thỉnh giảng giảng viên các học viện, nhà trƣờng Quân đội. Hệ thống Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên do Chính phủ quy định, đƣợc phát triển trên phạm vi cả nƣớc đang thu hút phần lớn sinh viên vào học tập rèn luyện trong môi trƣờng văn hóa - quân sự. Để đáp ứng nhu cầu học tập, rèn luyện của sinh viên Nhà nƣớc đã và đang đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất cho các trung tâm giáo dục quốc phòng. Tổ chức dạy, học môn học GDQP-AN phải bảo đảm đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đƣợc quy định trong danh mục và tiêu chuẩn bộ mẫu thiết bị dạy học tối thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Khi học thực hành các kĩ năng quân sự phải có sân tập, bãi tập, thao trƣờng. Giáo trình Giáo dục quốc phòng - an ninh dùng cho các trƣờng đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là tài liệu giảng dạy và nghiên cứu chính thức của giảng viên, sinh viên. Ngoài ra, sinh viên tìm đọc thêm tại liệu tham khảo đã đƣợc giới thiệu trong giáo trình để nâng cao kiến thức và sự hiểu biết về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. 4. Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập môn học GDQP-AN đƣợc quy định trong Quyết định số 69/2007/QĐ-BGDĐT ngày 14 tháng 11 năm 2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hình thức tổ chức dạy học tập trung chủ yếu thực hiện ở các Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên ; ở các trƣờng có thể đan xen nhiều hình thức khác theo quy định của hiệu trƣởng. Khi học GDQP-AN sinh viên phải mang mặc gọn gàng, thống nhất theo hƣớng dẫn của giảng viên. 8 Tuyệt đối chấp hành các quy định, quy tắc đảm bảo an toàn về ngƣời, vũ khí, trang thiết bị. Sinh viên có đủ số lần kiểm tra cho mỗi học phần ; mỗi lần kiểm tra đạt từ 5 điểm trở lên và có đủ 80% thời gian có mặt trên lớp sẽ đƣợc dự thi kết thúc học phần lần thứ nhất. Mỗi sinh viên phải dự thi đủ các học phần quy định trong chƣơng trình. Học phần có từ 2 đến 3 đơn vị học trình kiểm tra ít nhất một lần ; học phần có từ 4 đơn vị học trình trở lên kiểm tra ít nhất hai lần. Số lần cụ thể do hiệu trƣởng các trƣờng quy định. Chứng chỉ Giáo dục quốc phòng - an ninh cấp cho sinh viên để xác nhận kết quả học tập môn học GDQP-AN. Sinh viên đạt điểm trung bình môn học từ 5 điểm và không bị xử lý kỉ luật từ cảnh cáo trở lên đƣợc cấp Chứng chỉ Giáo dục quốc phòng - an ninh và đƣợc ghi kết quả xếp loại trong Chứng chỉ. Chứng chỉ Giáo dục quốc phòng - an ninh là một trong những điều kiện để xét tốt nghiệp cao đẳng, đại học. 9 Bài 2 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC I - MỤC ĐÍCH YÊU CẦU - Trang bị cho sinh viên một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Trên cơ sở đó bồi dƣỡng thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học cách mạng cho ngƣời học, giúp ngƣời học có cơ sở khoa học để quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng ta về chiến tranh, xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. II - NỘI DUNG 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh a) Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh - Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp, trƣớc Mác đã có nhiều nhà tƣ tƣởng đề cập đến vấn đề này, song đáng chú ý nhất là tƣ tƣởng của C.Ph.Claudơvít (1780 - 1831), Ông quan niệm : Chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phƣơng phục tùng ý chí của mình. Chiến tranh là sự huy động sức mạnh không hạn độ, sức mạnh đến tột cùng của các bên tham chiến. Ở đây, C.Ph.Claudơvít đã chỉ ra đƣợc đặc trƣng cơ bản của chiến tranh đó là sử dụng bạo lực. Tuy nhiên, C.Ph.Claudơvít chƣa luận giải đƣợc bản chất của hành vi bạo lực ấy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã kế thừa tƣ tƣởng đó và đi đến khẳng định : Chiến tranh là hiện tƣợng chính trị xã hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nƣớc (hoặc liên minh giữa các nƣớc) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định. Nhƣ vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chiến tranh là kết quả của những quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội. Nhƣng nó không phải là những mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời nói chung, mà là mối quan hệ giữa những tập đoàn ngƣời có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Khác với các hiện tƣợng chính trị - xã hội khác, chiến tranh đƣợc thể hiện dƣới một hình thức đặc biệt, sử dụng một công cụ đặc biệt đó là bạo lực vũ trang. - Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh Với thế giới quan và phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, cùng với sự kết hợp sáng tạo phƣơng pháp lôgíc và lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen lần đầu tiên trong lịch sử đã luận giải một cách đúng đắn về nguồn gốc nảy sinh chiến tranh. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa (Nguồn gốc kinh tế), suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Đồng thời, sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc trực tiếp (Nguồn gốc xã hội) trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Thực tiễn hình thành và phát triển xã hội loài ngƣời đã chứng minh cho nhận định trên. Trong tác phẩm: "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của 10 nhà nƣớc", Ph.Ăngghen chỉ rõ: Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chƣa có chế độ tƣ hữu, chƣa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là một hiện tƣợng chính trị xã hội cũng chƣa xuất hiện.. Mặc dù ở thời kì này đã xuất hiện những cuộc xung đột vũ trang. Nhƣng đó không phải là một cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng "Lao động thời cổ". Bởi vì, xét về mặt xã hội, xã hội cộng sản nguyên thuỷ là một xã hội không có giai cấp, bình đẳng, không có tình trạng phân chia thành kẻ giàu, ngƣời nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột và ngƣời bị áp bức bóc lột. Về kinh tế, không có của "dƣ thừa tƣơng đối" để ngƣời này có thể chiếm đoạt lao động của ngƣời khác, mục tiêu các cuộc xung đột đó chỉ để tranh giành các điều kiện tự nhiên thuận lợi để tồn tại nhƣ : nguồn nƣớc, bãi cỏ, vùng săn bắn hay hang động,... Về mặt kĩ thuật quân sự, trong các cuộc xung đột này, tất cả các bên tham gia đều không có lực lƣợng vũ trang chuyên nghiệp, cũng nhƣ vũ khí chuyên dùng. Tất cả các thành viên của bộ lạc với mọi công cụ lao động thƣờng ngày đều tham gia vào cuộc xung đột đó. Do đó, các cuộc xung đột vũ trang này hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên tự phát. Theo đó, Ph.Ăngghen chỉ rõ, khi chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại nhƣ một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở thành "Bạn đƣờng" của mọi chế độ tƣ hữu. Phát triển những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về chiến tranh trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin chỉ rõ trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc còn nguy cơ xảy ra chiến tranh, chiến tranh là bạn đƣờng của chủ nghĩa đế quốc. Nhƣ vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, có đối kháng giai cấp và áp bức bóc lột, chiến tranh không phải là một định mệnh gắn liền với con ngƣời và xã hội loài ngƣời. Muốn xoá bỏ chiến tranh phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra nó - Bản chất chiến tranh Bản chất chiến tranh là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội. Theo V.I. Lênin: "Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác" (cụ thể là bằng bạo lực)1. Theo V.I. Lênin, khi phân tích bản chất chiến tranh, nhất thiết phải có quan điểm chính trị - giai cấp, xem chiến tranh chỉ là một hiện tƣợng lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin: "Chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế"2, "Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc"3, chính trị là sự thống nhất giữa đƣờng lối đối nội và đƣờng lối đối ngoại, trong đó đƣờng lối đối ngoại phụ thuộc vào đƣờng lối đối nội. Nhƣ vậy, chiến tranh chỉ là một thời đoạn, một bộ phận của chính trị, nó không làm gián đoạn chính trị. Ngƣợc lại, mọi chức năng, nhiệm vụ của chính trị đều đƣợc tiếp tục thực hiện trong chiến tranh. Giữa chiến tranh và chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó 1 V.I. Lênin, Toà n tập, tập 26, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 397 2 V.I. Lênin, Toà n tập, tập 42, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 349 3 V.I. Lênin, Toà n tập, tập 49, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 500 11 chính trị chi phối và quyết định toàn bộ tiến trình và kết cục chiến tranh, chính trị chỉ đạo toàn bộ hoặc phần lớn tiến trình và kết cục của chiến tranh, chính trị quy định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang. Chính trị không chỉ kiểm tra toàn bộ quá trình tác chiến, mà còn sử dụng kết quả sau chiến tranh để đề ra những nhiệm vụ, những mục tiêu mới cho giai cấp, xã hội trên cơ sở thắng lợi hay thất bại của chiến tranh. Ngƣợc lại, chiến tranh là một bộ phận, một phƣơng tiện của chính trị, là kết quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Chiến tranh tác động trở lại chính trị theo hai hƣớng tích cực hoặc tiêu cực; hoặc tích cực ở khâu này nhƣng lại tiêu cực ở khâu khác. Chiến tranh có thể làm thay đổi đƣờng lối, chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thậm chí có thể còn thay đổi cả thành phần của lực lƣợng lãnh đạo chính trị trong các bên tham chiến. Chiến tranh tác động lên chính trị thông qua việc làm thay đổi về chất tình hình xã hội, nó làm phức tạp hoá các mối quan hệ và làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có trong xã hội có đối kháng giai cấp. Chiến tranh có thể đẩy nhanh sự chín muồi của cách mạng hoặc làm mất đi tình thế cách mạng. Chiến tranh kiểm tra sức sống của toàn bộ chế độ chính trị xã hội. Trong thời đại ngày nay mặc dù chiến tranh có những thay đổi về phƣơng thức tác chiến, vũ khí trang bị "song bản chất chiến tranh vẫn không có gì thay đổi, chiến tranh vẫn là sự tiếp tục chính trị của các nhà nƣớc và giai cấp nhất định. Đƣờng lối chính trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn luôn chứa đựng nguy cơ chiến tranh, đƣờng lối đó đã quyết định đến mục tiêu chiến tranh, tổ chức biên chế, phƣơng thức tác chiến, vũ khí trang bị" của quân đội do chúng tổ chức ra và nuôi dƣỡng. b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh Trên cơ sở lập trường duy vật biên chứng, Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật của chiến tranh, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội Khi nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã khái quát bằng hình ảnh "con đỉa hai vòi", một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân lao động thuộc địa. Trong hội nghị Véc – Xây, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, bộ mặt thật của sự xâm lƣợc thuộc địa và chiến tranh cƣớp bóc của chủ nghĩa thực dân Pháp. "Ngƣời Pháp khai hoá văn minh bằng rƣợu lậu, thuốc phiện". Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ngƣời khẳng định: "Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nƣớc của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cƣớp nƣớc ta, mong bắt dân ta làm nô lệ"4. Nhƣ vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nƣớc ta là cuộc chiến tranh xâm lƣợc. Ngƣợc lại cuộc chiến tranh của nhân ta chống thực dân Pháp xâm lƣợc là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nƣớc. 4 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 150. 12 - Xác định tích chất xã hội của chiến tranh, phân tích tính chất chính trị - xã hội của chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lƣợc là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lƣợc là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa. Kế thừa và phát triển tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Ngƣời khẳng định: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có đƣợc, phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền"5. Bạo lực cách mạng theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng cả lực lƣợng chính trị và lực lƣợng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. - Hồ Chí Minh Khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh luôn coi con ngƣời là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Ngƣời chủ trƣơng phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để "xây dựng lầu thắng lợi". Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một trong những di sản quý báu của Ngƣời. Tƣ tƣởng này đƣợc Hồ Chí Minh trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhƣng sinh động và rất sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tƣ tƣởng của Ngƣời đƣợc thể hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19 - 12 - 1946: "Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì ngƣời già, ngƣời trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc... hễ là ngƣời Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng sứng, ai có gƣơm dùng gƣơm, không có gƣơm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nƣớc"6. Để đánh thắng giặc Mĩ xâm lƣợc, Ngƣời tiếp tục khẳng định: "Ba muơi mốt triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kì già trẻ, gái trai, phải là ba mƣơi mốt triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mĩ cứu nƣớc, quyết giành thắng lợi cuối cùng"7. Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực lƣợng vũ tranh nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận : quân sự ; chính trị ; kinh tế ; văn hoá... Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới và là một sự phát triển đến đỉnh cao tƣ tƣởng vũ trang 5 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 304. 6 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 480. 7 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 323. 13 toàn dân của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luân mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội a) Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội Theo Ph.Ăngghen: "Quân đội là một tập đoàn ngƣời vũ trang, có tổ chức do nhà nƣớc xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự"8. Nhƣ vậy theo Ph.Ăngghen, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà nƣớc nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lƣợng nòng cốt để nhà nƣớc, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang. Trong điều kiện chủ nghĩa tƣ bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền (Chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin nhấn mạnh: chức năng cơ bản của quân đội đế quốc là phƣơng tiện quân sự chủ yếu để đạt mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành chiến tranh xâm lƣợc và duy trì quyền thống trị của bọn bọc lột đối với nhân dân lao động trong nƣớc. Nguồn gốc ra đời của quân đội Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lí luận đề cập đến nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhƣng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tƣợng chính trị xã hội đặc thù này. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định : quân đội là một hiện tƣợng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài ngƣời, khi xuất hiện chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tƣ hữu và đối kháng giai cấp đã làm nẩy sinh nhà nƣớc thống trị bóc lột. Để bảo vệ lơị ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng nhân dân lao động giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lƣợng vũ trang thƣờng trực làm công cụ bạo lực của nhà nƣớc. Nhƣ vậy, chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tƣ hữu, còn chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nƣớc và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong. - Bản chất giai cấp của quân đội Khi bàn về bản chất của quân đội, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nƣớc nhất định nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và nhà nƣớc tổ chức, nuôi dƣỡng, sử dụng nó. Bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nƣớc đã tổ chức ra quân đội đó. Quân đội do giai cấp, nhà nƣớc tổ chức, nuôi dƣỡng và xây dựng theo đƣờng lối, quan điểm chính trị, quân sự của giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung thành với nhà nƣớc, giai cấp đã tổ chức ra nó. 8 Ph.Ăngghen, Tuyển tập Luận văn quân sự, tập 2, Nxb Quõn đội nhõn dõn, Hà Nội,1978, tr.9 14 Bản chất giai cấp của quân đội không phải tự phát hình thành mà phải trải qua quá trình xây dựng lâu dài và đƣợc củng cố liên tục. Bản chất giai cấp quân đội là tƣơng đối ổn định, nhƣng không phải là bất biến. Sự vận động phát triển bản chất giai cấp của quân đội bị chi phối bởi nhiều yếu tố nhƣ: giai cấp, nhà nƣớc, các lực lƣợng, tổ chức chính trị xã hội và việc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ trong quân đội. Do sự tác động của các yếu tố trên mà bản chất giai cấp của quân đội có thể đƣợc tăng cƣờng hoặc bị phai nhạt, thậm chí bị biến chất và tuột khỏi tay nhà nƣớc, giai cấp đã tổ chức ra, nuôi dƣỡng quân đội đó. Sự thay đổi bản chất giai cấp quân đội diễn ra dần dần thông qua việc tăng cƣờng hoặc suy yếu dần các mối quan hệ trên. Trong tình hình hiện nay, các học giả tƣ sản thƣờng rêu rao luận điểm "phi chính trị hoá quân đội", cho quân đội phải đứng ngoài chính trị, quân đội là công cụ bạo lực của toàn xã hội, không mang bản chất giai cấp. Thực chất quan điểm "phi chính trị hoá quân đội" của các học giả tƣ sản nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm giảm sức mạnh chiến đấu, từng bƣớc làm thoái hoá về chính trị tƣ tƣởng, phai nhạt bản chất cách mạng của quân đội. Đó là một mục tiêu quan trọng trong chiến lƣợc "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng tác động không nhỏ tới tăng cƣờng bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của quân đội. Những biểu hiện cƣờng điệu lợi ích vật chất, lề thói thực dụng, cơ hội về chính trị, sự suy giảm về đạo đức cách mạng là những cản trở trong xây dựng quân đội cách mạng hiện nay. - Sức mạnh chiến đấu của quân đội Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ: con ngƣời, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự, trong xây dựng sức mạnh chiến đấu quân đội, các ông rất chú trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận xét về tài năng của các tƣớng lĩnh quân sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội ngũ này. Bảo vệ và phát triển tƣ tƣởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ: yếu tố quân số, tổ chức, cơ cấu biên chế; yếu tố chính trị - tinh thần và kỉ luật; số lƣợng, chất lƣợng vũ khí trang bị kĩ thuật ; trình độ huấn luyện và thể lực; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh lãnh đạo, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp. Giữa các yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của từng yếu tố là không ngang bằng nhau, trong những điều kiện xác định, yếu tố chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội. V.I. Lênin khẳng định: "Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trƣờng"9. Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của V.I. Lênin 9 V.I.Lê nin, Toà n tập, tập 41, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến Bộ, Mátxítcơva. 1977, tr. 147. 15 V.I. Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển lí luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về quân đội và vận dụng thành công trong xây dựng quân đôị kiểu mới của giai cấp vô sản. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mƣời Nga thành công, các thế lực thù địch điên cuồng chống phá nƣớc Nga Xô viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.I. Lênin yêu cầu phải giải tán quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới (Hồng quân) của giai cấp vô sản. V.I. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới: Đảng cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cƣờng bản chất giai cấp công nhân; đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân ; trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản; xây dựng chính quy; không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức ; phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng ; sẵn sàng chiến đấu. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân. Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của V.I. Lênin vẫn giữ nguyên giá trị. Là cơ sở lí luận khoa học cho các Đảng Cộng sản xác định phƣơng hƣớng tổ chức xây dựng quân đội của mình. b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Ngƣời viết: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải đựoc giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lƣợng quân sự, phải có tổ chức"10. Ngày 22 - 12 - 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của quân đội ta hiện nay đƣợc thành lập. Sự ra đời của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nƣớc ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp chúng ta phải tổ chức ra bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Để thực hiện đƣợc mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức ra lực lƣợng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc mà tiền thân của nó là những đội xích vệ đỏ, du kích vũ trang, sau đó phát triển thành quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lƣợng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc. Quá trình xây dựng chiến đấu và trƣởng thành của quân đội ta luôn luôn gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng, những thăng trầm của chiến tranh, những thử thách ác liệt cùng với những hi sinh to lớn mà phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" 10 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 71, 72. 16 được rèn luyện, kiểm nghiệm nghiêm ngặt nhất và được phát triển lên những đỉnh cao. Ngay từ khi mới thành lập mặc dù đại bộ phận cán bộ chiến sĩ xuất thân từ nông dân nhƣng tất cả họ đều là những ngƣời có lòng yêu nƣớc mãnh liệt, trí căm thù giặc sâu sắc. Trải qua những năm tháng phục vụ trong quân đội họ không ngừng đƣợc nâng cao giác ngộ cách mạng, chuyển từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp, từ tinh thần độc lập dân tộc lên ý thức xã hội chủ nghĩa, chuyển lập trƣờng của giai cấp xuất thân sang lập trƣờng giai cấp công nhân để xem xét giải quyết đánh giá công việc. Sự thống nhất hữu cơ trên, từ nét đặc thù về chế độ chính trị, bản chất Nhà nƣớc, giai cấp tổ chức, nuôi dƣỡng và sử dụng quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam sinh ra từ các phong trào cách mạng của quần chúng, đƣợc nhân dân nuôi dƣỡng, đùm bọc, che trở và tiếp sức, lại đƣợc tổ chức giáo dục rèn luyện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam - Ngƣời đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp, dân tộc và nhân dân, vì vậy quân đội luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. - Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân Với cƣơng vị là ngƣời tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lƣợc. Trong xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo dục, nuôi dƣỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sơ, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 22 - 12 - 1958, Ngƣời vừa biểu dƣơng, vừa căn dặn: "Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ"11. Lời căn dặn của Ngƣời là sự khái quát các phẩm chất, tiêu chí của bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi chiêu đãi mừng quân đội ta tròn hai mƣơi tuổi ngày 22 - 12 -1964, một lần nữa Hồ Chí Minh lại khẳng định, bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp, nhà nƣớc. Ngƣời viết: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"12. Quân đội nhân dân Việt Nam đƣợc Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, đƣợc nhân dân hết lòng yêu thƣơng, đùm bọc, đồng thời đƣợc kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nƣớc gắn liền với giữ nƣớc oanh liệt. Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển, quân đội ta 11 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 247. 12 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 349 - 350. 17 luôn thực sự là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. - Khẳng định, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đây là một trong những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lí luận về quân đội. Ngƣời lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, xem đó nhƣ là biểu hiện tính quy luật của quá trình hình thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Trong bài Tình đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt 3 - 3 - 1952, Ngƣời viết: "Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phóc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác"13. - Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Bắt nguồn từ nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lƣợng nòng cốt trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ngƣời tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trƣởng thành của quân đội, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đối với quân đội. Điều này đƣợc thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo : tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ công tác đảng, công tác chính trị. Nhờ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Thành tựu to lớn trong tăng cƣờng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội ta là, Đảng đã đào tạo nên những thế hệ "Bộ đội cụ Hồ", một mẫu hình mới của con ngƣời xã hội chủ nghĩa trong quân đội kiểu mới. Nhƣ vậy, không có một Đảng Cộng sản chân chính, không có một giai cấp công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trƣờng xã hội chủ nghĩa, thì quân đội nhân dân Việt Nam không thể giữ vững đƣợc bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu lí tƣởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một Quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục. - Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội Mục tiêu lí tƣởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tƣởng các mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc: Gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội"14. 13 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.426-427. 14 Hồ Chí Minh, Toà n tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1986, tr.143. 18 Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trƣớc tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng và của quân đội, ngoài nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quân đội phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nƣớc, sản xuất ra của cải vật chất và tiến hành công tác huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp bóc lột. Quân đội ta có ba chức năng: Là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội. Với tƣ cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lƣợc, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tƣ tƣởng, văn hoá; là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nƣớc, trong điêù kiện hiện nay, quân đội còn là lực lƣợng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lƣợc, nhất là ở biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình huống phức tạp nảy sinh ; là đội quân công tác, quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cƣờng sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đƣờng lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc. Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu, trƣởng thành của quân đội ta đã chứng minh: quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc ba chức năng trên cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến tranh giải phóng. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò hết sức nặng nề. Quân đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lƣợng chính trị, công cụ vũ trang sắc bén của Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ...Để thực hiện vai trò đó, cần đổi mới nhận thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với tình hình mới. 3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Tổ quốc bao giờ cũng gắn với nhà nƣớc và giai cấp thống trị xã hội. Vấn đề Tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có tổ quốc. Theo nghĩa đó mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định : "Dƣới chủ nghĩa tƣ bản, giai cấp công nhân không có Tổ quốc"15. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C.Mác, Ph.Ăngghen sống, vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chƣa đƣợc đặt ra một cách trực tiõp. Bài học kinh nghiệm của Công xã Pari có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệ thành quả cách mạng, sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền, nhƣng mới chỉ là ý kiến ban đầu về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến mới của V.I. Lênin vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang đặt ra trực tiếp ở nƣớc Nga Xô viết. 15 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toà n tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.623 19 a) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan - Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân. Trong điều kiện giai cấp tƣ sản nắm chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, giai cấp công nhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, khi ấy chính giai cấp công nhân là ngƣời đại diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng. - Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin là ngƣời có công đóng góp to lớn trong việc bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Ngƣời khẳng định: "Kể từ ngày 25 tháng Mƣời 1917, chúng ta là những ngƣời chủ trƣơng bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành "bảo vệ Tổ quốc", nhƣng cuộc chiến tranh giữ nƣớc mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tƣ cách là Tổ quốc"16. Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nƣớc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đƣợc thiết lập thì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội, xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng đƣợc đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lƣợc của các nƣớc xã hội chủ nghĩa hai nhiệm vụ chiến lƣợc này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. - Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc. Ngay từ những năm cuối thế kỉ XIX, V.I. Lênin đã chỉ ra, do quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không đồng thời ở các nƣớc. Do đó, trong xuốt thời kì quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tƣ bản là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt. - Xuất phát từ bản chất, âm mƣu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. Sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tƣ sản trong nƣớc tuy đã bị đ#nh đổ về mặt chính trị, nhƣng chúng vẫn chƣa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tƣ bản bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện, nhân dân các nƣớc xã hội chủ nghĩa phải đƣơng đầu chống trả những âm mƣu và hành động lật đổ, xâm lƣợc của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mƣời Nga năm 1917, mƣời bốn nƣớc đế quốc tập trung bao vây hòng tiêu diệt nƣớc Nga Xô viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nƣớc xã hội chủ nghĩa những bài học đắt giá rằng : xây dựng chủ nghĩa 16 V.I. Lê nin, Toà n tập, tập 36, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1977, tr. 102. 20 xã hội phải luôn gắn liền với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có nhƣ vậy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn tại và phát triển. Thực tiễn trên đây một lần nữa đã chứng minh cho luận điểm của V.I. Lênin rằng: giành chính quyền đã khó, nhƣng giữ đƣợc chính quyền còn khó khăn hơn. b) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết, V.I. Lênin trực tiếp lãnh đạo xây dựng đất nƣớc, chống lại sự chống phá của kẻ thù trong nƣớc và sự can thiệp của đế quốc bên ngoài. Đó là những năm tháng cực kì gian khổ, khó khăn, Ngƣời chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong nƣớc, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin luôn nhắc nhở mọi ngƣời phải luôn nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng kẻ thù, tuyệt đối không chủ quan, phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phòng. Ngƣời luôn lạc quan tin tƣởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngƣời khẳng định: "Không bao giờ ngƣời ta có thể chiến thắng đƣợc một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền Xô viết, chính quyền c#a những ngƣời lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ cũng nhƣ con cái họ có khả năng hƣởng thụ mọi thành quả văn hoá, mọi thành quả lao động của con ngƣời"17. c) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng gắn với phát triển kinh tế - xã hội Học thuyết Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I. Lênin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có ý nghiã quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải đƣợc quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết. V.I. Lênin đã đƣa ra nhiều biện pháp để bảo vệ Tổ quốc nhƣ : củng cố chính quyền Xô viết các cấp ; bài trừ nội phản, tiêu diệt bọn bạch vệ; đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hoá, khoa học kĩ thuật, vận dụng đƣờng lối đối ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lƣợc, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới. V.I. Lênin cùng Đảng Bôn - xê - vích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh thủ thời gian hoà bình, xây dựng đất nƣớc mạnh lên về mọi mặt, từng bƣớc biến các tiềm lực thành sự mạnh hiện thực của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. d) Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa V.I. Lênin chỉ ra rằng: Đảng Cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đảng phải đề ra chủ trƣơng, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gƣơng mẫu hi sinh. Trong quân đội, chế độ chính uỷ đƣợc thực hiện, cán bộ chính trị đƣợc lấy từ đại biểu ƣu tú của công nông, thực chất đó là đại diện của Đảng, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Đảng hƣớng dẫn, giám sát các hoạt động 17 V.I.Lê nin, Toà n tập, tập 38, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 378. 21 của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo Học thuyết Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I. Lênin vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam. a) Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đƣợc Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nƣớc"18. Ý chí giữ nƣớc của Ngƣời rất sâu sắc và kiên quyết. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19 -12 - 1946, Ngƣời nói: chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nƣớc, nhất định không chịu làm nô lệ... Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên !...Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trƣớc sự uy hiếp của thực dân đế quốc và bọn phản động tay sai, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng đề ra nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một chân lí rằng: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". "Hễ còn một tên xâm lƣợc trên đất nƣớc ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi", trƣớc khi đi xa, trong bản di chúc Ngƣời căn dặn: "Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều ngƣời. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn". Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tƣ tƣởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. b) Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghãi xã hội, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên xuốt trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Ngƣời khẳng định: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tình thần và lực lƣợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lƣợc nƣớc ta, Ngƣời kêu gọi: Hễ là ngƣời Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc, Ngƣời kêu gọi nhân dân cả nƣớc quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nƣớc đi lên xã hội chủ nghĩa. c) Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với sức mạnh thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng ngƣời dân, của các cấp, các ngành từ Trung ƣơng 18 Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr.553. 22 đến cơ sở, là sức mạnh của các nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lƣợc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Ngƣời phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh dân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi đó là lực lƣợng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Ngƣời căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nƣớc, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. d) Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Đảng ta là ngƣời lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nƣớc nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phƣơng pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á Đông và trên thế giới"19 và Ngƣời khẳng định: "Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ, với sự đoàn kết nhất trí, lòng tin tƣởng vững chắc và tinh thần tự lực cánh sinh của mình, sự giúp đỡ vô tƣ của các nƣớc anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhất là nhân dân các nƣớc á - Phi, nhân dân ta nhất định khắc phục đƣợc mọi khó khăn ; làm tròn đƣợc nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ đã đề ra"20. Quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện đƣợc thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chiến lƣợc sau dây : Một là, xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nƣớc, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bƣớc hiện đại. Ba là, quán triệt tƣ tƣởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng định trong mọi hoàn cảnh, tình huống chiến tranh. Bốn là, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh, boả vệ Tổ quốc. 19 Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập.8, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996, tr.483. 20 Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996, tr.489. 23 K ẾT LUẬN Học thuyết Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận để các Đảng cộng sản đề ra chủ trƣơng, đƣờng lối chiến lƣợc xây dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lƣợng vũ trang và bảo vệ Tổ quốc xã h ội chủ nghĩa. Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nƣớc đang có nhiều biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣỏng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn. Sinh viên là lớp trí thức trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên, xây dựng thế giới quan khoa học, niền tin và trách nhiệm của mình trong góp phần tích cực vào bảo vệ, phát triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. III - CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nguồn gốc, bản chất chiến tranh ? 2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội ? 3. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ? 4. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ? 5. Quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp cơ bản của Đảng ta về bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới ? 6. Sự khác nhau của CLauZoVit và Lênin về bản chất của chiến tranh ? 24 BÀI 3 XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÕNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải có đƣợc nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có đƣợc khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lƣợng, mọi cấp, mọi ngành ý thức đầy đủ đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Từ đó, vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. I - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU - Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tính chất, đặc điểm, quan điểm, nội dung, biệp pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. - Xây dựng ý thức trách nhiệm, tự giác tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. II - NỘI DUNG 1. Vị trí, đặc trƣng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân a) Vị trí Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, là tổng thể các hoạt - Một số khái niệm động đối nội, đối ngoại CT, VH, KT + Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phƣơng hƣớng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí, điều hành của Nhà nƣớc, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất nƣớc, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lƣợc và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” (1) + “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nƣớc đƣợc xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cƣờng” (2) + An ninh nhân dân: “1.Là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lƣợng an ninh nhân dân làm nòng cốt dƣới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nƣớc. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lƣợng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mƣu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng với quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Bộ phận của lực lƣợng vũ trang nhân dân Việt Nam có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiệm vụ: đấu tranh làm thất bại mọi âm mƣu hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ (1) Trung tâm Từ điển BKQS, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, NXB QĐND, H, 2004, tr. 848. (2). Luật Quốc phòng, Điều 3, NXB CTQG, H, 2005. 25 chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, chính quyền, các lực lƣợng vũ trang và nhân dân” 3 + Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nƣớc, giữ nƣớc của toàn dân tộc đƣợc huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lƣợng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt. - Vị trí Xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mƣu, hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng - an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lƣợc gắn bó chặt chẽ” 1 b) Đặc trưng Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của ta có những đặc trƣng: - Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng Đặc trƣng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc phòng, an ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa với các nƣớc khác. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. - Đó là nền quốc phòng, an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành Đặc trƣng vì dân, của dân, do dân của nền quốc phòng, an ninh nƣớc ta là thể hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đặc trƣng vì dân, của dân, do dân và mục đích tự vệ của nền quốc phòng, an ninh cho phép ta huy động mọi ngƣời, mọi tổ chức, mọi lực lƣợng đều thực hiện xây dựng nền quốc phòng, an ninh và đấu tranh quốc phòng, an ninh. Đồng thời, đƣờng lối của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân. - Đó là nền quốc phòng, an ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nƣớc ta tạo thành bởi rất nhiều yếu tố nhƣ chính trị, kinh tế, văn hoá, tƣ tƣởng, khoa học, quân sự, an ninh,... cả ở trong nƣớc, ngoài nƣớc, của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề và là biện pháp để nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lƣợc. - Nền quốc phòng, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại 3 Trung tâm Từ điển BKQS, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, NXB QĐND, H, 2004, tr. 26. 1 Đảng Cộng sản VN, Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr 39 26 Việc tạo ra sức mạnh quốc phòng, an ninh không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải huy động đƣợc sức mạnh của toàn dân về mọi mặt chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học. Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc phòng, an ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nƣớc, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại. Xây dựng nền quốc phòng, an ninh toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại là một tất yếu khách quan. Xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân từng bƣớc hiện đại. Kết hợp giữa xây dựng con ngƣời có giác ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí trang bị kĩ thuật hiện đại. Phát triển công nghiệp quốc phòng, từng bƣớc trang bị hiện đại cho các lực lƣợng vũ trang nhân dân. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với tăng cƣờng quốc phòng, an ninh. - Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân Nền quốc phòng và nền an ninh nhân dân của chúng ta đều đƣợc xây dựng nhằm mục đích tự vệ, đều phải chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữa nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phƣơng thức tổ chức lực lƣợng, hoạt động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể đƣợc phân công mà thôi. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh phải thƣờng xuyên và tiến hành đồng bộ, thống nhất từ trong chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả nƣớc cũng nhƣ từng vùng, miền, địa phƣơng, mọi ngành, mọi cấp. 2. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa a) Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh hiện nay - Tạo sức mạnh tổng hợp của đất nƣớc cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ để giữ vững hoà bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lƣợc dƣới mọi hình thức và quy mô. - Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tƣ tƣởng văn hoá, xã hội; giữ vững ổn định chính trị, môi trƣờng hoà bình, phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. b) Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân an ninh nhân dân vững mạnh hiện nay - Xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Lực lƣợng quốc phòng, an ninh là những con ngƣời, tổ chức và những cơ sở vật chất, tài chính đảm bảo cho các hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh. Từ đặc trƣng của nền quốc phòng, an ninh ở nƣớc ta thì lực lƣợng quốc phòng, an ninh của nền quốc phòng toàn dânầnn ninh nhân dân bao gồm lực lƣợng toàn dân (lực lƣợng chính trị) và lực lƣợng vũ trang nhân dân. 27 Lực lƣợng chính trị bao gồm các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và những tổ chức khác trong đời sống xã hội đã đƣợc phép thành lập và quần chúng nhân dân. Lực lƣợng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, công an nhân dân. - Xây dựng lực lƣợng quốc phòng, an ninh là xây dựng lực lƣợng chính trị và lực lƣợng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. c) Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh ngày càng vững mạnh Tiềm lực quốc phòng, an ninh là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực quốc phòng, an ninh đƣợc thể hiện ở trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, nhƣng tập trung ở tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ; tiềm lực quân sự, an ninh. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh là tập trung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ và xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh. - Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần + Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về chính trị, tinh thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực chính trị, tinh thần đƣợc biểu hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lí điều hành của Nhà nƣớc; ý chí, quyết tâm của nhân dân, của các lực lƣợng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống. Tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quốc phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là cơ sở, nền tảng của tiềm lực quân sự, an ninh. + Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân cần tập trung: Xây dựng tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nƣớc, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm ch?

Use Quizgecko on...
Browser
Browser